Showing posts with label Zen. Show all posts
Showing posts with label Zen. Show all posts

Tuesday, April 21, 2015

Thursday, November 20, 2014

Âm nhạc chữa lành bệnh tật

Trong các ca phẫu thuật, âm nhạc giúp giảm thiểu cảm giác đau đớn. Nó cũng khiến bệnh nhân bớt lo âu sợ hãi trước và sau mổ, đẩy nhanh sự hồi phục sức khỏe của bệnh nhân.

Vài nghiên cứu mới đây tìm ra sự liên hệ giữa tần số của vài điệu nhạc với điện năng của tế bào não. Nếu dùng một tần số nhạc nào đó, ta có thể tăng khả năng học hỏi, thư giãn cơ thể, giúp ngủ ngon giấc. Do đó, theo nhiều nhạc sĩ, để hưởng ích lợi của nhạc điệu, bạn không những chỉ nghe mà còn phải để toàn thân rung động theo điệu nhạc.

Fabien Maman, soạn nhạc gia kiêm sinh học gia người Pháp, đã quan sát ảnh hưởng của âm thanh lên tế bào ung thư. Dưới tác dụng của các âm điệu khác nhau từ nhạc khí hoặc lời ca, tế bào bệnh dường như không chịu đựng được sự dao động và vỡ tung, nhất là với tiếng hát cao vút.

Âm nhạc trị liệu
Các nghiên cứu xưa nay đều cho thấy, âm nhạc trước hết làm cho con người được phát triển toàn diện ngay từ trong bụng mẹ. Thai nhi được cho “nghe nhạc” thường khỏe hơn các thai nhi khác. Các bác sĩ vẫn khuyên thai phụ nên nghe nhạc êm dịu và cho thai nhi cùng nghe. Em bé được nghe mẹ hát ru từ thuở còn thơ thường thông minh và khi lớn lên ít bị những bệnh về tâm trí.

Nhạc còn giúp thư giãn, giảm thiểu lo âu, đau đớn, giảm cô lập với xã hội, tăng sự tập trung, chú ý, kích thích cảm xúc và nhận thức. Nhạc cũng giúp cơ thể có nhiều sinh lực, kích động não bộ, làm thức tỉnh các cảm xúc, tháo gỡ các xúc động, phục hồi tâm hồn, làm hứng khởi hành động, giúp ngủ ngon, giúp lý luận tốt cũng như giúp tránh lao tâm suy nghĩ.

Nhạc trị liệu không chỉ là nghe nhạc mà còn là tham dự các sinh hoạt liên quan tới âm nhạc. Mọi người đều có thể tận hưởng các lợi điểm của nhạc miễn là để toàn thân rung động, hòa nhịp theo tiếng hát lời ca.

Ngày nay, nhạc trị liệu là lĩnh vực trong đó âm nhạc được sử dụng như một phương thức phục hồi, duy trì và hoàn thiện đời sống của người bệnh về thể chất, tinh thần và cảm xúc. Nhạc được coi như một nghệ thuật sáng tạo trị liệu, tương tự như vũ trị liệu, trị liệu khéo tay (art therapy), và cũng có thể phối hợp với nhiều phương thức trị liệu như thiền, xoa bóp, thôi miên.

Với người khỏe mạnh, âm nhạc được dùng như một phương thức thư giãn, giảm căng thẳng. Ở trẻ em và người lớn có rối loạn về cảm xúc, hành vi, ít khả năng học hỏi, suy giảm các cử động, âm nhạc trị liệu thường được dùng đồng thời với các phương thức trị liệu căn bản để làm bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn.

Trong phẫu thuật, âm nhạc giúp giảm thiểu cảm giác đau đớn, bớt lo âu sợ hãi, nhanh hồi phục sức lực. Nhiều phụ nữ nhờ thư giãn nghe nhạc mà nhẹ nhàng sinh con không cần đến thuốc tê. Nhiều nghiên cứu cho hay sự kích thích của nhạc điệu đôi khi lấn át được các kích thích tạo ra cảm giác đau, nhờ đó bệnh nhân tập trung vào điệu nhạc và trấn áp được cơn đau.

Bệnh tật có thể khiến cơ thể mệt mỏi, rã rời nhưng khi nghe những điệu nhạc có âm điệu khích lệ, thúc giục, người bệnh có thể quên cả đớn đau, phiền muộn.

Sau cơn tai biến não, nhiều bệnh nhân rơi vào tình trạng mất khả năng vận động, cần tập luyện để phục hồi chức năng. Âm nhạc có vai trò quan trọng giúp bệnh nhân phấn khởi, lần lần mấp máy cử động theo điệu nhạc cũng như giảm thiểu cảm giác buồn chán. Kinh nghiệm cho thấy nhiều người mất tiếng nói lấy lại được phát âm sau khi ầm ừ hát theo nhạc.

Âm nhạc trị liệu được dùng trong các trường hợp: giúp trẻ em tật nguyền khôi phục sự phối hợp các hoạt động thể chất cũng như sự khéo léo của các bắp thịt chân tay; giúp người bệnh sa sút trí tuệ, người có rối loạn hành vi lấy lại sự bình thường trong hành động.

Theo Sức khỏe & đời sống

Hào quang con người

Các máy móc hiện đại đã phát hiện sự phát sáng của cơ thể người. Trong một môi trường thích hợp, đôi khi mắt thường cũng nhìn thấy được. Quầng sáng đó được gọi là hào quang, có liên quan đến tình trạng sức khỏe con người.

Thực chất vầng hào quang bao quanh cơ thể người là biểu hiện trường sinh học của các cơ quan tạng phủ, các mô sống, là sự bức xạ năng lượng sinh học của cơ thể và môi trường chung quanh. Theo tiến sĩ khoa học Isakov (Liên Xô cũ), vầng hào quang hay vỏ trường sinh học có 3 lớp chủ yếu liên hệ chặt chẽ với nhau.

Lớp đầu tiên gần cơ thể người nhất, có hình dạng tương tự cơ thể, giống như “lớp áo giáp” bọc ngoài. Ra xa dần, nó có hình dạng như quả trứng, xa hơn nữa thành hình tròn và tỏa rộng ra mãi vô tận. Nói theo từ cổ, đó là phần hồn hay là phần năng lượng của ý thức, tư tuuởng, tình cảm của một con người cụ thể. Các nhà khoa học đã khám phá và khẳng định, ý thức tư tưởng tình cảm con người cũng là một thứ vật chất mang tính hạt và sóng do một loại hạt nguyên tử siêu nhẹ cấu tạo nên. Lớp này bền vững hơn cả và mang sắc độ từ màu vàng đến màu xanh da trời.

Lớp thứ hai dễ thấy hơn, phản ánh trạng thái tình cảm. Lớp thứ ba liên hệ chặt chẽ với trạng thái sức khỏe. Đây là lớp trường sinh học mà các nhà y học năng lượng, các nhà khí công yoga, ngoại cảm thường quan sát để chẩn đoán bệnh và điều trị. Nhờ các thiết bị kỹ thuật lượng tử siêu dẫn, hệ thống kính màu đặc biệt, mắt kính có chứa dung dịch Tritanlomin hoặc bằng khả năng thấu thị, người ta có thể thấy hình dáng, màu sắc và kích thước của lớp vỏ hào quang này.

Nếu hình dáng, màu sắc và kích thước của hào quang thay đổi, biến sắc thì người đó có bệnh. Viện sĩ thông tin y học Vaxili kixeelep (Liên Xô cũ) nói: “Bất kỳ bệnh nào cũng gắn liền với sự hao hụt năng lượng do bị các tế bào hấp thu. Khi mắc bệnh, điện từ trường của tế bào thay đổi. Vì vậy, cần tác động lên tế bào bằng tác nhân vật lý. Cách chữa bệnh của các nhà thôi miên ngoại cảm là tác động lên cơ thể bệnh nhân một nguồn năng lượng vật lý điện học”.

Đầu tiên, các nhà y học năng lượng chẩn đoán bệnh bằng việc đo bề dày lớp hào quang bảo vệ. Nếu chiều dày đạt 40-60 cm thì sức khỏe bình thường; nếu thấp hơn 30 cm là mất cân bằng năng lượng nghiêm trọng; nếu chỉ còn 10-15 cm thì ở tình trạng ngất, bất tỉnh.

Tiếp đến, người ta nhìn vào các trung tâm lực (còn gọi đại huyệt hay luân xa) hoặc các đám rối thần kinh (plexus) để thấy sự chuyển động của các dòng, xoáy năng lượng. Nếu rối loạn dòng chảy năng lượng ở trung tâm lực này hay trung tâm lực khác tương ứng với đám rối thần kinh, người ta biết cơ quan hay tạng phủ ở đó có bệnh. Ví dụ, nếu rối loạn dòng chảy năng lượng ở đại huyệt số 3 (luân xa 3) tương ứng đám rối thần kinh mặt trời (plexus selaire) thì hệ tiêu hóa không tốt; năng lượng cơ quan tiêu hóa như gan, mật, dạ dày, lách, bị hao hụt, chức năng chuyển hóa dinh dưỡng kém. Còn khi rối loạn về tổ chức thì hình hào quang bảo vệ có dạng gờ hoặc lõm.

Sưu tầm

Quý Tiếc Nguồn Năng Lượng Của Thân Thể

Con người chúng ta có sáu loại tánh giác tri như: Mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, thân có thể xúc chạm và ý có thể suy nghĩ. Bởi con người là loài linh thông nhất trong vạn vật, cho nên có đủ sáu thứ công năng trên. Còn tổ chức cơ thể của các động vật khác thì không có phức tạp như của con người. Chúng ta ăn uống, mặc quần áo, ngủ nghỉ cũng như xe hơi cần xăng nhớt vậy. Xe chạy đường xa thì cần thêm xăng. Con người chúng ta khi bị tiêu hao năng lượng cũng cần được bổ sung. Bởi vậy con người cần phải ăn, tức là giúp sự chuyển hóa thay củ đổi mới của thân thể. Thức ăn trong cơ thể con người phát ra sức nóng và nguồn năng lượng, hầu giúp chúng ta hoạt động. Nhưng trên thực tế, vì phần tinh hoa của thức ăn rất ít, cho nên chúng ta cần phải bổ sung liên tục. Ví như ăn sáng xong, đến trưa lại đói; ăn trưa xong, đến chiều lại muốn ăn nữa. Lúc ngủ, chúng ta cũng không ngừng tiêu hao năng lượng, cho nên khi thức dậy lại cần ăn sáng.

Chúng ta tiêu hao năng lượng đó như thế nào? Khi mắt chúng ta thấy sắc, đó là mình đang tiêu hao năng lượng. Khi tai nghe âm thanh, cũng là đang tiêu hao năng lượng. Khi mũi ngửi mùi hương, cũng là đang tiêu hao năng lượng. Cho đến khi lưỡi nếm mùi vị, thân xúc chạm, ý niệm suy nghĩ, cũng đều là tiêu hao năng lượng của chúng ta đấy!

Cho nên nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành của chúng ta, không có cái gì là không làm tiêu hao năng lượng. Nếu quý vị không tiêu phí nhiều, mà chỉ vừa phải thôi, thì sẽ bảo trì thân thể được khỏe mạnh. Nhưng nếu quý vị tiêu hao năng lượng quá nhiều, thì thân thể sẽ bị trục trặc. Ví như chúng ta ăn quá nhiều, ăn chất dinh dưỡng quá phong phú, hoặc giả là ăn thứ có độc, như thế cũng sẽ khiến cho thân thể chúng ta phát bệnh. Cho nên bất luận là đi, đứng, nằm, ngồi, nhất cử nhất động gì, chúng ta cũng đều phải hết sức cẩn thận. Chúng ta không nên vô duyên vô cớ mà lãng phí năng lượng, hoặc tự làm hại thể xác và tinh thần của mình. Cho nên vấn đề nầy thì trọng yếu vô cùng!

Hỡi các thanh niên trẻ tuổi, bây giờ là thời đại hoàng kim của các vị, mà cũng là những ngày thanh xuân của cuộc đời các vị đấy. Mùa xuân thì vạn vật hân hoan tươi tốt, sức sống tràn trề. Nhưng chúng ta nên sanh trưởng thuận theo tự nhiên để phù hợp với sự tuần tự của sinh lý. Chúng ta nhất thiết không nên ăn uống bừa bãi, hoặc nói năng loạn xạ, hoặc uống rượu hút thuốc. Cho đến nhìn bậy, nghe bậy, ngửi bậy, nếm bậy, sờ bậy, nghĩ bậy... tất cả đều không nên. Vì như thế sẽ làm tổn hại đến thân thể và linh tánh của chính mình.

Nếu các vị biết vận dụng sáu chức năng đó như: thấy, nghe, ngửi nếm, sờ và ý nghĩ, vậy thì thân thể các vị sẽ được khỏe mạnh. Nếu không biết dùng, thì một lúc nào đó, thân thể các vị sẽ đình công, bỏ việc và chia tay với các vị. Chia tay rồi là các vị sẽ không được ăn, không được mặc và không có nhà để ngủ. Bởi vậy mọi người nên biết giữ gìn quý tiếc thân thể của mình. Các vị đừng nên sống say chết mộng, để rồi đi vào con đường nguy hiểm. Trong sách Hiếu Kinh có nói: “Thân thể tóc da của ta là được cha mẹ cho, nên ta không dám hủy hại. Hiếu là bắt đầu từ đấy.” Vậy các vị đừng nên tùy tiện tự hủy hoại thân thể mình. Chúng ta nên quý tiếc giữ gìn nó cho tốt, nếu không thì chẳng mặt mũi nào để nhìn cha mẹ. Cha mẹ sanh ta và nuôi dưỡng ta, nếu ta không biết quý tiếc thân thể mình thì đó là hành vi bất hiếu nhất đối với cha mẹ vậy.

Sưu tầm

Wednesday, November 19, 2014

Nhạc Tế lễ Tây Tạng và những chủng âm nguyên thủy

Phật giáo tây Tạng xem con người không phải là một thể sống riêng lẻ, mà nằm trong mối liên hệ với vũ trụ. Âm nhạc Tây Tạng không nói đến cảm xúc nhất thời của một cá thể mà có tính vô thủy vô chung, miên viễn của đời sống vũ trụ, trong đó vui buồn riêng tư của con người không đóng vai trò gì. Với thể tính đó người ta gặp lại suối nguồn của thực tại trong tự tính sâu kín nhất của mình bằng những âm thanh diệu vợi.


Tây Tạng – miền đất hùng vĩ với hàng ngàn đỉnh núi cao chọc trời nối nhau, nơi tôn giáo và thiên nhiên hòa vào nhau thành bức họa sừng sững, trấn áp, thâu tóm hồn phách con người. Nơi ta phải dừng lại chiêm ngưỡng và ngơ ngẩn trên suốt hành trình. Đôi khi cảm giác choáng ngợp bí ẩn khiến nước mắt tràn ra, đôi khi người ta quỳ sụp trước một ngọn núi hùng vĩ mà không thốt một lời. Miền cao nguyên huyền bí và vĩ đại nhất thế giới này mang trong mình biết bao điều huyền diệu, thậm chí với nhiều người là man rợ như tập tính thiên táng – người chết đi sẽ được mang lên đỉnh núi, phanh thây, xẻ thịt đập nát xương trộn lẫn bơ cho kền kền ăn – ý nghĩa của việc này là bắt chước Phật Tổ từng xẻ thịt cho thú dữ ăn. Hay một đứa trẻ mới ra đời sẽ bị ngâm nước lạnh, hoặc bỏ ra ngoài trời một ngày để xem có sống sót nổi không. Nếu sức khỏe yếu thì sớm muộn cũng chết do thời tiết vô cùng khắc nghiệt.

Mọi thứ tại vùng đất Phật huyền bí này vừa khiến người ta tò mò vừa khiến người ta e dè nhưng đều khó cưỡng lại cảm giác muốn một lần đến nơi đây. Và một trong những điều huyền diệu nhất nơi đây là âm nhạc. Âm nhạc không chỉ là công cụ truyền đạo mà bản thân âm nhạc chính là tôn giáo hay nói khác đi – tôn giáo là âm thanh.

Âm nhạc gắn liền với người dân Tây Tạng từ những buổi tế lễ đến sinh hoạt đời thường, trong các lễ hội nhạc tế lễ còn kết hợp với nhảy múa. Người Tây Tạng không quan niệm ca hát nhảy múa là một thứ tiêu khiển giải trí hay vui mắt, mà chính là một sự hợp nhất của thân-khẩu-ý và đó cũng là một cách tu tập. Ở góc độ nào đó, quan niệm này chính là quan niệm của những tín đồ âm nhạc chân chính nhất trên thế giới, coi âm nhạc là tôn giáo, là điều thuần khiết nhất, vĩ đại nhất mà con người tạo ra.


Những pháp khí hát tiếng người

Âm nhạc Tây Tạng hay gọi chính xác hơn là lễ nhạc Phật giáo Tây Tạng ảnh hưởng từ âm nhạc truyền thống Ấn Độ, Trung Hoa và Mông Cổ. Các pháp khí (nhạc cụ) được sử dụng trong các lễ hội khá phong phú, phổ biến nhất là trống nhỏ (Damaru), chiêng (Mkar rgna) tù và (Dung-dka), chuông tay (Drilbu) và não bạt (Ting-ting, còn gọi là chũm choẹ). Không khó để có thể tìm được những đĩa nhạc thiền, nhạc world music mang âm hưởng tế lễ của Phật giáo Tây Tạng, thường chúng đều có ghi trên bìa album chữ Shangrila – thánh địa chí tôn của tín ngưỡng và những truyền thuyết nhân gian Tây Tạng. Nơi này còn được thêu dệt, thần kỳ hóa trong bộ truyện Mật Mã Tây Tạng của nhà văn Hà Mã mà anh gọi là Hương Ba La. Hãy để tâm hồn tĩnh tại, gạt bỏ mọi lo âu của đời sống cơm áo gạo tiền và ngồi xuống lắng nghe, bạn sẽ bị những âm thanh diệu kỳ, vô thủy vô chung của âm nhạc Tây Tạng cuốn đi trong dòng suối mát của tâm thức, nơi đó bạn sẽ nhìn thấy ánh dương tráng lệ trên những đỉnh núi tuyết lấp lánh, nơi đó bạn sẽ thấy những cánh hoa bay trên bầu trời ẩn sau những tiếng ì ầm, tụng niệm huyền bí.



Câu chú Om Mani Padme Hum là một điều tối thượng, nghĩa của nó là âm thanh của im lặng, kim cương trong hoa sen. Âm “OM” được xem là chủng âm gốc thiêng liêng nhất, nơi bắt đầu cho hành trình điểm đạo, dẫn đạo và giải thoát con người khỏi đau khổ trầm luân nên nhạc tế lễ Tây Tạng thường bắt đầu bằng chủng âm OM này, hoặc gợi cho người ta biết nó đã được cất lên có thể bằng nhạc cụ hay bằng tiếng niệm chú.

Loại nhạc tế lễ sâu sắc đầy tác dung tâm linh của Tây Tạng là âm thanh của các buổi giảng đạo, không được xây dựng nên bởi tiết tấu mà chủ yếu là nhịp điệu và tác dụng của các chủng âm – có thể coi là chủng âm nguyên thủy – mỗi âm đó được một nhạc cụ trình bày. Các nhạc cụ như Dung-dka, Drilbu… không bắt chước các biến hiện của giọng hát nốt nhạc hay xúc cảm con người mà đại diện cho cách diễn tả của những hiện tượng cơ bản của tự nhiên, trong đó giọng người chỉ là một trong nhiều giao động, các dao động tạo nên bản hòa ca mang âm điệu vũ trụ.

Không tuân thủ quy luật của nhạc lý phương Tây nhưng nó mang lại hiệu ứng tổng thể, hiệu ứng này không phải không có nhịp điệu, có phép tắc nhất định và cho thấy một sự song song giữa các yếu tố âm thanh ở mức độ khác nhau. Nhà nghiên cứu Tây Tạng vĩ đại đến từ phương Tây, Anagarika Govinda cho rằng, ngôn ngữ của âm nhạc phương Tây không phù hợp để diễn tả tính cách độc đáo của nhạc Tây Tạng, hoặc những người trình bày không đủ sức nắm lấy cái thần của nó vì không ở trong nó, không được sinh ra từ nó và các nhạc cụ phương Tây không thể thay thế hay tấu lại cáo hồn của âm nhạc Tây Tạng.

Phật giáo tây Tạng xem con người không phải là một thể sống riêng lẻ, mà nằm trong mối liên hệ với cái nền vũ trụ. Âm nhạc Tây Tạng không nói đến cảm xúc nhất thời của một cá thể mà có tính vô thủy vô chung, miên viễn của đời sống vũ trụ, trong đó vui buồn riêng tư của con người không đóng vai trò gì. Với thể tính đó người ta gặp lại suối nguồn của thực tại trong tự tính sâu kín nhất của mình. Đây không chỉ là tính cốt yếu của thiền định Phật giáo mà cũng là của âm nhạc tế lễ Tây Tạng, nó xây dựng lên sự rung động sâu xa nhất mà một nhạc cụ hay giọng người có thể đủ sức diễn tả. Tiếng tù và, tiếng chuông lục lạc tấu lên những âm thanh như đi từ lòng đất xa xôi hay từ chiều sâu vô tận của không gian, như tiếng sấm động - chủng âm thiêng liêng của tự nhiên, mà sự dao động của nó đại diện cho nguồn gốc của hết thảy mọi vật trong vũ trụ. Chúng tạo nên nền móng mà trên đó âm thanh cao hơn hay những tiếng đập của nhạc cụ gỗ mới trỗi dậy, như dạng hình của loài hữu hình mới xuất hiện từ các năng lực cơ bản của tự nhiên. Người ta ý thức những năng lực đó không nơi đâu mạnh bằng những dãy núi hùng vĩ và các cao nguyên ngút ngàn cô tịch ở Tây Tạng. Từ đây bạn sẽ bị nhấn chìm bởi sức mạnh của tự nhiên như con người thuở hồng hoang khiếp sợ sấm chớp bão giông, bằng âm nhạc, để qua thăng trầm khổ ái tìm thấy ánh sáng cứu rỗi của Đạo.

Như giọng trầm của người chỉ huy đã cho đoàn nhạc công nền móng và mở đầu bài giảng rồi cuối mỗi đoạn lại trở bề với giọng trầm, chiếc kèn tù và bằng đồng dài đến bốn mét là gốc gác, là điểm xuất phát của dàn nhạc giao hưởng ấy. Loại kèn luôn được thổi từng cặp , chiếc này vừa dứt chiếc kia đã nổi lên. Người ta cảm giác như có một tiếng kèn liên tục, có lên có xuống, trong sức mạnh và chiều sâu của nó nghe như một đại dương âm thanh tràn trong không gian. Và trên mặt đại dương đó mà chủng âm của nó là OM, gốc của mọi âm thiêng liêng. Bạn sẽ nghe, nhìn, cảm nhận được gió từ tâm thức, gió đã tạo ra đời sống cá thể bằng cách làm thành vô số những sóng lớn sóng nhỏ, như những âm thanh của nhạc cụ gỗ, sinh động và đầy tiết điệu.

Giọng trầm mà vì sư trưởng Đại Lạt Ma bắt đầu giảng lễ và làm nền của buổi lễ không gì khác hơn chính là sự nhắc lại của chủ âm thần chú này, vì giảng đạo thường có tính chú nguyện, nhất là phần đầu và phần cuối mỗi đoạn. Những câu chú nguyện quan trọng của phần tụng niệm đều có sự tham gia của chuông và trống nhỏ.

Ngôi sao Tây Tạng khoe kèn khủng

Sợi dây kỳ diệu kết nối tâm thức

Ngược với tiếng kèn có tính tĩnh tại thì tiếng đập và tiếng xập xòa đại diện cho yếu tố động của dàn nhạc. Tiết điệu thay đổi theo từng đoạn tụng niệm – đây là điều quan trọng về tính chất âm nhạc và cảm xúc, vì đó là cảm giác của sự giải thóat sinh ra từ áp lực lúc đầu còn chậm về sau nhanh và mạnh dần, đến cuối buổi lễ thì tiết điệu nhanh dần lên đến mức choáng ngợp trấn áp mọi xúc cảm khiến người ta kính sợ. Tiếng xập xỏa – thứ âm thanh kim loại dường như quay cuồng thắng lợi, vươn cao hơn tất cả tiếng đập chạy ầm ầm phía dưới và chấm dứt bằng một tiếng xập xỏa vang dội như sấm. Sau đó lại bắt đầu một chu trình mới chậm rãi của một đoạn tế lễ khác. OM. 
Khi tiếng kèn hay giọng trầm của con người bắt chước chủng âm vũ trụ, trong đó ta chứng kiến cái vô cùng của không gian thì tiếng trống đại biểu cho tính hữu hạn của cuộc sống và vận động, chúng tuân thủ nguyên lý cao nhất của mọi sinh cơ, tuân thủ chu trình nội tại của chúng, đó là chu trình sáng tạo và phân hủy, phân tích và tổng hợp, hóa hiện và thu hồi, sinh thành và hoại diệt. Chúng đạt đỉnh cao trong hữu hiện và giải thoát.

Nếu tiết điệu trong lễ nhạc Tây Tạng đóng vai trò của âm hưởng vô thường trong đời sống cá thể thì nhịp điệu của âm nhạc lại nói lên cơ cấu và ý nghĩa đích thực của nó. Với tiếng trống hay tiếng đập, người Tây Tạng hay cả người phương Đông nói lên cảm xúc hoàn toàn khác với người phương Tây, là nơi không thấy nó là một nhạc cụ cơ bản hay độc lập. Trong thời kỳ đầu của văn hóa Ấn độ, ý nghĩa của tiếng trống có thể được thấy qua một ẩn dụ quan trọng của Phật, trong đó ngài so sánh quy luật trường cửu của vũ trụ như nhịp điệu của tiếng trống, đó là nơi đầu tiên sau khi giác ngộ, Ngài nó về “Tiếng trống của sự bất tử” (amata dundubhin) vang lên cho toàn thế giới.

Diễn giải quá nhiều sẽ làm mất đi và sẽ đi đến sự bất lực không thể diễn tả cho đúng sự hoàn hảo và hòa điệu của âm nhạc Tây Tạng. Đối với người Tạng, âm nhạc nhằm hướng đến tâm thức cao hơn của thực tại – thống nhất ý thức bao, để tất cả hành động, cảm xúc, quá khứ, hiện tại tương lai, tụng niệm… đều hòa hợp với nhau, tan chảy hòa chung trong một thân duy nhất.
Nếu không thể đến tận Tây Tạng tham gia một buổi lễ thì bạn vẫn có thể mở một đĩa nhạc Tibet hoặc Shangrila và tìm cách nắm bắt sợi dây tâm thức kết nối bạn với những điều tuyệt vời, một hình thức thiền định đơn giản nhưng vẫn cảm giác được những điều vi diệu nó mang lại.





BÍ MẬT CỦA CHÂN NGÔN – THẦN CHÚ VÀ CHÚ NGỮ CỦA MẬT TÔNG TÂY TẠNG

Thần chú là một âm thanh thăng hoa , có thể tạo một sự phản ứng đặc biệt trong thân tâm của con người , thần chú có một tần số rung động trong ethers ,..

Thần chú (còn gọi là chú ngữ- mantra,chanting) là âm thanh kích họat sự thăng hoa khi tập trung tinh thần phát khởi, sẽ tạo nên hiệu ứng đặc biệt trong thân tâm của con người, thần chú có một tần số và tầng thức rung động trong trường năng lượng vi sóng (ethers), lắng nghe thần chú khi ngồi thiền, ta có thể hội nhập vào ánh sáng của nội tâm. Tần số và tầng thức rung động đồng pha (cùng loại) , có thể được tác động kích họat bởi một hoặc nhiều người khác, để đưa tâm thức của ta lên những cảnh giới cao của tâm thần, công năng mạnh, yếu tùy thuộc vào năng lượng của người tác động kích họat hoặc đối tựong, đồng thời có thể làm khai mở những năng lượng đặc biệt (huyền năng). Thần chú quan trọng ở nơi âm thanh + sự tập trung phát khởi, chớ không ở nơi ý nghĩa, khi dịch ra ngôn ngữ khác, thì thần chú không còn tác dụng nữa .

Chú ngữ ( Mantra ) là âm thanh của tinh thần , sự khác nhau giữa âm thanh vật chất và âm thanh tinh thần là Hình tư tưởng ( thought form ) độ dài sóng ( wavelength) , tần số ( frequency) và môi trường truyền dẩn ( medium ) .

Chú ngữ là một dụng cụ dùng để xóa bỏ ( deprogramming ) hay tái tạo những dữ kiện ( reprogramming ) trong máy điện nảo tinh thầncủa ta . Chú ngữ có hiệu lực cho việc tự kỷ ám thị , bởi việc lập lại một số đoạn văn soạn sẳn có ý nghĩa và mang một mục tiêu mà ta muốn đạt đến , để niệm lên , hầu mang ý niệm nầy , huân tập để cấy vào tiềm thức , mà từ đó nó ảnh hưởng đến ta , trong những hành động hướng về mục đích mà ta đã chủ ý ; Hiệu lực thứ nhì là chú ngữ có thể , tạo sự rung động cộng hưởng đến tâm thân ta , hầu trị bệnh hay đạt đến một mục đích nào đó .

Âm thanh có thể mang làn sóng của hình ảnh truyền đạt đến ta ,nhằm khơi mở sự cảm tri của ta . Mổi âm thanh có những dạng rung động cộng hưởng với những vật khác như : màu sắc , tinh thể ( crystals ),hình thể(biogeometry) ,ngũ hành (elementals)

Với một cách thở đặc biệt , ta có thể tạo ra một hình ảnh sáng tạo ; Sự niện chú ngữ AUM cho một số không khí thoát ra ở xoang mủi sẽ tạo ra âm thanh AUM , sẽ tạo ra sự rung động ở xoang mủi , sự rung động nầy lan truyền đến các sàng nảo thất của nảo bộ ( four ventricles of the brain ) . Sự niệm chú ngữ là một công cụ dùng để tập trung , sự chú ý vào một điểm , làm đóng lại những hoạt động của ngũ quan bên ngoài và hệ thống đối giao cảm ( sympathetic system ) để tạo điều kiện cho hệ thống trực giao cảm ( parasympathetic system ) hoạt động , hầu đưa ta đi sâu vào đại định .

Sự lập lại chú ngữ , trong một thời gian , sẽ cộng hưởng trong tâm ta , đến một lúc nào đó , ta không cần phát âm để đọc chú ngữ , mà chú ngữ sẽ tự động vang lên trong tâm ta , và chỉ một mình ta nghe được .

Khi đọc trì chân ngôn thì ta dể nhập định hơn , ý nghĩa của chân ngôn thường hướng về thành tựu và khấn nguyện , một ước nguyện nào đó , sự lập đi lập , lập lại một chân ngôn nào đó , thường có tác dụng ám thị cho ta dần dần dể đi vào nhập định , những người trì tụng thần chú có khả năng cao , niệm những chân ngôn có ý nghĩa , mang những nguyện vọng hiện thực , có thể biến sự tụng niệm những câu chân ngôn nầy , thành những tín hiệu có khả năng , phóng phát ra ngoài , tùy theo công việc như trị bệnh hay tôn giáo v..v...

Mặt khác , những mẩu tự chủng chân ngôn như AUM , khi tụng đọc lên theo một phương pháp đặc biệt , có thể làm cho bên trong nội tạng của thân thể rúng động , rung lên , có tác dụng đã thông kinh mạch và phóng phát một nội lực nào đó của cơ thể , hoặc có thể gây tác dụng tạo một sự tác động đến âm ba bên ngoài mà làm tan vở hay tiêu diệt một chướng ngại vật nào đó .

Dùng thần chú âm thanh , tụng đọc cho một trung tâm năng lực nào đó , để làm cho trung tâm nầy rung lên , cộng hưởng để phụ trợ và tăng thêm cường độ , để rồi dùng từ luân xa nầy như cái loa , hay như là một nơi phát ra năng lực để hướng đến mục tiêu , mà phóng phát năng lực , để tạo một kết quả mà mình mong muốn .

Ở một lảnh vực trì chú cao hơn , người trì chú có thể quán tưởng , một chú ngữ nào đó , kèm theo một loại màu sắc nhất định , sau đó sự trì chú và quán tưởng nầy biến đổi hình dạng theo một qui tắc nhất định , đồng thời phối hợp với sự điều tức , sự lên xuống của nội khí , có thể làm sản sinh một trạng thái khí công hay một hiệu năng nào đó , có hình thức rất là đa diện .

Những tín hiệu của chú ngữ có thể làm sản sinh ra , nhiều hiệu ứng của khí công , có sự quan hệ với âm ba rất là mật thiết .

Chú ngữ lợi dụng , tính xuyên thấu và chiết xạ của thanh ba , để vận hành nội khí , hầu đạt đến , ý đến , âm thanh đến và khí tới : Nói một cách khác , là dùng âm thanh để mang dẩn khí lực , khí lực đi theo ý niệm , và âm thanh ra vào . Đó là đặc điểm đặc thù của việc tụng niện thần chúhay là tin tức mả vậy .

Do đó , Mật Tông Tây Tạng đã lợi dụng tính xuyên thấu , tính khúc xạ của âm thanh , thần chú để mang dẩn nội khí luân lưu trong cơ thể , hầu đạt đến kết quả , khi ý đến đâu , thì khí đến đó , âm thanh đến đó ; dùng ý để dẩn khí , dùng khí để ém âm thanh ; sự phối hợp của âm thanh và khí lực sẽ hình thành một loại hợp lưu , có mật độ và tầng số rung động cao , có khả năng bài trừ những khí nặng trược , hấp thu dưởng khí , giúp ích cho sức khõe và trị liệu .

Những vị có trình độ thiền định cao nói rằng , ấn quyết biểu thị một loại ý nghĩa nhất định , đồng thời tương ứng với sự phát tín hiệu đến một kinh mạch nào của cơ thể , để hổ trợ cho việc khởi phát nội khí và hình thaǹh một ý niệm nào đó .

Pháp môn tu trì luyện tập , chủ yếu về ấn quyết của Mật Tông , thường là dùng ý để dẩn ánh sáng , dùng ba hình ánh sáng của ba màu trắng , đỏ , lam để làm thành những dòng quang tử , đem trường khúc xạ của ánh sáng vũ trụ , dùng ý niệm mà đưa chúng vào bộ đầu , sau đó lại phân phối đi khắp cơ thể .

Trong khi ngồi thiền và bắt ấn quyết , giúp cho người luyện tập , bắt được sự liên lạc với sáu kinh , hổ tương , giao lưu khí lực , có lợi cho việc thanh tịnh thân tâm , làm khai thông phế khí , làm mạnh ruột non , thông tam tiêu , giúp tăng cường năng lực cho cơ thể , thích ứng với ngoại giới ; Khí lực và ánh sáng trong lúc quán tưởng sẽ giúp Tinh - Khí – Thần bên trong cơ thể được thăng hoa và kiện toàn ; dương khí và sinh lực khí được đưa lên , sưởi ấm và bồi dưởng cho ngũ tạng lục phủ ; khi sự luyện ý và khí được tinh chuyên , thì máu huyết sẽ đầy đủ , tinh thần sẽ minh mẩn ; máu huyết của ngũ tạng lục phủ được sung mản , con gnười sẽ được luôn khõe mạnh và kéo dài được tuổi thọ . Ta để những ảnh hưởng của những tầng số rung động lên trên cơ thể con người có thể đưa ta vào trạng thái đại định ( Samadhi - Altered states of conciousness ) và năng lượng của hỏa hầu , lửa tam muội ( Kundalini ) có thể được phóng thích , do sự kích thích của hoàn cảnh chung quanh , bằng những rung động của âm ba và những làn sóng điện từ khởi động .

Khi hành giả đại định , cột xương sống của họ sinh ra sinh điện từ ; và trường điện từ nầy sẽ được phóng ra từ đầu của hành giả , như là một cột trụ ăng ten ( antena ) , nó tạo ra sự cảm ứng , tác dụng hổ tương với điện và từ trường có sẳn chung quanh . Đầu hành giả đồng thời là một trụ ăng ten phát sóng , có thể điều chỉnh , phát và thu những tầng số rung động cộng hưởng hai chiều , lửa hỏa hầu có thể phát triển trong hệ thống thần kinh , sau đó cảm ứng , cộng hưởng với điện từ bên ngoài cơ thể để tạo ra nhiệt và lửa bốc cháy trong cơ thể .

Theo Ajit Moonkerjee : Âm nhạc và khiêu vũ có thể làm khơi dậy luồng lửa hỏa hầu nầy ; trong đầu , xương sống và bắp thịt có chứa nhiều chất Potassium . Tầng số năng lượng sóng điện của radio có thể làm bật cháy khí Oxygen trong phổi

http://www.phattu.com/showthread.php?t=28285&s=4ece91b0c501fc5eff3007260bc220e4

Thursday, October 2, 2014

Để Hạnh Phúc: Buông Xả và Tha Thứ


Huỳnh Huệ

Chúng ta đều cảm thấy rằng những gì chúng ta đang làm chỉ là một giọt nước trong đại dương.
Nhưng đại dương sẽ ít đi một chút bởi vì thiếu giọt nước ấy. “We ourselves feel that what we are doing is just a drop in the ocean. But the ocean would be less because of that missing drop.” Teresa


Trong cuộc sống hàng ngày nhiều áp lực và va đập, chúng ta thường khó tránh khỏi những bất đồng, va chạm trong công việc, sinh hoạt hàng ngày, và các mối quan hệ ở gia đình, nơi làm việc. Khi xảy ra tranh cãi, ta có thể không kiềm chế được và nổi nóng hay nặng lời, ta có thể thắng hay thua cuộc tranh cãi, thường không dễ giữ được hòa khí …

Kết quả là ta có thể làm tổn thương người khác, bị người khác làm tổn thương, hay chính mình cũng bị tổn thương, thấy đau đớn vì những mặc cảm thua cuộc, yếu thế, tự cho là mình kém cỏi, cay đắng vì thất bại. Thậm chí nhiều người trong chúng ta rồi sẽ cảm thấy ân hận trên chiến thắng, vì đàng sau cái gọi là chiến thắng ấy là những xa cách, mất mát và đổ vỡ nếu một trong hai bên đắm say với cái tôi ngã mạn, hay không biết cư xử đẹp.

Tất nhiên, chúng ta đều biết rằng điều hay nhất là chúng ta cố gắng trong ứng xử, giao tiếp và các mối quan hệ sao cho giữ được an bình trong tâm ta và an hòa với người: đối đãi với nhau bằng lòng biết ơn, tính chính trực, sự ôn nhu, nói những lời tử tế, …có nghĩa là tử tế với nhau. Làm được điều này không phải dễ! Vì thế chúng ta phải học cách sống an hòa với mình và với người gần như suốt đời, trong suốt quá trình hiện hữu của ta.

Có một câu nói rất hay của Abraham Joshua Heschel: “Ngày xưa còn trẻ, tôi thường khâm phục những người thông minh; giờ khi tôi lớn khôn hơn, tôi ngưỡng mộ những người tử tế.”

Albert Schweitzer cũng tin rằng: “Cứ luôn tử tế là có thể làm được rất nhiều. Như mặt trời làm băng tan, sự tử tế làm cho những ngộ nhận, bất tín, và thù địch tan biến “


Tuy nhiên tử tế với mọi người vẫn chưa đủ. Nếu chúng ta đôi lúc gặp những người chưa tử tế với mình, ta phải làm sao ? Chúng ta cần biết thương mình để có thể thương người. Và một trong những cách thương mình có thể dẫn đến an vui là biết buông xả và tha thứ. Bài viết sau đây của Leo Babauta trong Zenhabits sẽ cho ta một số ý tưởng về cách thực hành buông xả và tha thứ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BUÔNG XẢ VÀ THA THỨ

Leo Babauta

Một lúc nào đó trong đời, chúng ta đều đã từng bị một ai đó gây tổn thương-chúng ta bị đối xử tệ, niềm tin đổ vỡ, lòng ta đau đớn.

Và có khi nỗi đau này tuy không nặng nề lắm, nhưng nỗi đau kia lại hằn sâu và kéo dài quá lâu. Chúng ta lại khơi cho nỗi đau trở lại và rất khó khăn để nó qua đi.

Chính điều này gây ra những vấn đề. Thương tổn ấy không chỉ khiến ta đau khổ mà còn gây căng thẳng và hủy hoại các mối quan hệ, làm ta xao lãng công việc, xa rời gia đình và những điều quan trọng khác, khiến chúng ta miễn cưỡng không chịu mở lòng ra với những điều mới lạ và những người mới gặp. Chúng ta bị mắc kẹt trong chu trình của sân hận, đau khổ, và bỏ qua vẻ đẹp của cuộc sống diệu kỳ. Đối với một số người sẽ là thất vọng chán chường đến buông tay cay đắng.

Chúng ta cần phải học cách buông xả. Chúng ta cần phải tha thứ, để ta có thể tiếp tục bước tiếp và hạnh phúc. Tha thứ không chỉ với người mà còn với mình.

Đây là một điều mà tôi đã học một cách khó khăn- sau nhiều năm nuôi dưỡng sân hận với một người yêu thương phát sinh từ ấu thời và niên thiếu. Sau cùng tôi đã bỏ đi nỗi giận này ( khoảng 8 năm về trước). Tôi đã tha thứ, và điều này không chỉ cải thiện thật tốt mối quan hệ của tôi với người yêu thương ấy, mà còn giúp tôi hạnh phúc hơn.

Sự tha thứ không có nghĩa là bạn bôi xóa quá khứ, hay quên đi những gì đã xảy ra. Cũng không có nghĩa là người kia sẽ thay đổi hành vi- vì bạn không kiểm soát được điều đó. Tất cả chỉ có nghĩa là bạn đang buông xả cơn giận, hay cay đắng và nỗi đau, để chuyển sang một miền tốt đẹp an vui hơn.

Điều đó không dễ. Nhưng bạn có thể học làm điều đó.
Nếu bạn đang bám vào nỗi đau, làm nó sống lại, và không thể buông xả và tha thứ, xin hãy đọc một đôi điều tôi đã học

1/ Quyết tâm buông xả:

Bạn sẽ chẳng làm điều này trong một giây và có lẽ cũng không trong trong một ngày. Có thể cần thời gian để vượt qua một nỗi đau. Thế thì hãy toàn tâm ý với việc thay đổi, vì bạn thừa nhận rằng bạn đang bị tổn thương bởi nỗi đau.

2. Nghĩ về những thuận lợi và khó khăn:

Nỗi đau này gây ra cho bạn các vấn đề gì.?

Nó có ảnh hưởng đến mối quan hệ của bạn với người này không?

Với những người khác?

Nó có ảnh hưởng đến công việc hay gia đình không?

Nó có cản trở bạn theo đuổi những giấc mơ, hay trở nên một người tốt hơn chăng?

Nó có làm cho bạn không hạnh phúc không?

Hãy nghĩ về tất cả những vấn đề này và nhận ra bạn cần thay đổi.

Rồi hãy nghĩ đến những lợi ích của sự tha thứ- tha thứ sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn, giải phóng bạn khỏi quá khứ và nỗi đau, cải thiện mọi điều về mối quan hệ và cuộc đời

3. Nhận thức rằng bạn có thể lựa chọn

Bạn không thể kiểm soát hành động của người khác, và cũng không nên cố gắng. Nhưng bạn có thể kiểm soát không chỉ hành động của bạn, mà còn ý nghĩ của bạn.

Bạn có thể ngừng làm sống lại nỗi đau, và chọn để đi tiếp. Bạn có năng lực này. Bạn chỉ cần học cách thực hiện.

4. Cảm thông

Thử điều này: hãy đặt mình vào địa vị người đó. Cố gắng hiểu tại sao người ấy làm như thế. Bắt đầu từ giả định rằng người đó không phải là người xấu, nhưng chỉ làm một việc sai. Điều gì người này đã từng nghĩ, điều gì đã xảy ra trong quá khứ khiến người ta làm thế. Khi làm thế người đó đã nghĩ gì, và làm gì sau đó? Bây giờ người đó cảm thấy ra sao? Bạn sẽ không nói rằng những gì người ấy làm là đúng, nhưng thay vào đó hãy cố gắng hiểu và cảm thông.

5. Hiểu trách nhiệm của mình.

Cố gắng để hiểu vì sao và bằng cách nào bạn phải chịu một phần trách nhiệm cho những gì đã xảy ra. Bạn đã có thể làm gì để ngăn điều đó, và bằng cách nào bạn có thể ngăn nó không xảy ra lần sau? Không phải là bạn chịu hết trách nhiệm, hay nhận trách nhiệm cho người kia, nhưng nhận biết rằng chúng ta không phải nạn nhân mà là những người trong cuộc và chịu trách nhiệm trong cuộc đời.

6. Tập trung vào hiện tại:

Vì bạn đã xem xét quá khứ, hãy biết nhận ra rằng quá khứ đã qua. Nó không diễn ra nữa , ngoại trừ trong tâm trí bạn.Và điều đó gây ra vấn đề – đau khổ và căng thẳng.Thay vì vậy, hãy tập trung trở về với giây phút hiện tại. Bạn đang làm gì? Bạn có thể tìm thấy niềm vui nào hiện tại? Hãy tìm ra niềm vui trong cuộc sống hiện tại, khi nó xảy ra, và đừng làm quá khứ sống lại. Tất nhiên bạn sẽ bắt đầu nghĩ về quá khứ, nhưng chỉ biết như thế, và nhẹ nhàng trở về với hiện tại.

7. Để an bình bước vào đời bạn

Vì bạn tập trung vào hiện tại, cố gắng tập trung vào việc thở. Tưởng tượng mỗi hơi thở ra là đớn đau và quá khứ, loại bỏ nó ra khỏi thân xác và tâm hồn bạn. và tưởng tương mỗi hơi thở vào là an bình đi vào và làm tràn đầy trong bạn. Loại bỏ nỗi đau và quá khứ. Để cho sự an bình đi vào đời bạn. Đi lên phía trước, không nghĩ về quá khứ nữa, chỉ nghĩ về an bình và hiện tại.

8. Cảm nhận tâm từ ái

Sau cùng, tha thứ cho người và nhận thức rằng khi tha thứ, bạn cho mình được hưởng hạnh phúc và bước tiếp. Làm điều này không dễ, nhất là khi ta nuôi dưỡng quá nhiều sân hận với một ai đó. Hãy chọn con đường đi đến hạnh phúc Hãy để tình yêu người và yêu đời lớn lên trong tim bạn. Có thể cần thời gian, nhưng nếu bạn kiên định điều này, tiếp tục thực hiện một số điều trên cho đến khi bạn có thể đạt đến lòng thương cảm.
Babauta

Mong sao chúng ta đều có được niềm hạnh phúc của buông xả và tha thứ ít nhất một lần trong ngày hôm nay và nhiều hơn trong một tuần và một tháng ……

Wednesday, September 24, 2014

Người ngu

Một số người có ngu hơn người khác không?

Tâm trí là ngu. Chừng nào bạn còn chưa đi ra ngoài tâm trí, bạn không đi ra ngoài ngu; tâm trí chừng nấy, là ngu.

Và tâm trí có hai kiểu: thông thái và không thông thái. Nhưng cả hai đều ngu. Tâm trí thông thái được coi là thông minh. Nó không phải vậy. Tâm trí ít thông thái bị coi là ngu, nhưng cả hai đều ngu.

Trong ngu xuẩn của mình bạn có thể biết nhiều - bạn có thể thu thập nhiều thông tin; bạn có thể mang tải trọng kinh sách theo bạn; bạn có thể huấn luyện tâm trí, ước định tâm trí; bạn có thể ghi nhớ; bạn có thể gần như trở thành cuốn từ điển bách khoa toàn thư Britannica - nhưng điều đó không tạo ra khác biệt nào trong cái ngu của bạn. Thực ra nếu bạn bắt gặp một người không còn tâm trí nào, cái ngu của bạn sẽ là nhiều hơn cái ngu của những người không có thông tin, người đơn giản dốt nát. Biết nhiều hơn không phải là trở thành việc biết, và biết ít hơn không phải là ngu xuẩn.

Ngu xuẩn là một loại ngủ, vô nhận biết sâu. Bạn cứ làm các thứ mà chẳng biết tại sao. Bạn cứ tham gia vào cả nghìn lẻ một tình huống mà chẳng biết tại sao. Bạn đi qua cuộc sống mà ngủ say. Việc ngủ đó là ngu xuẩn. Bị đồng nhất với tâm trí là ngu xuẩn. Nếu bạn nhớ, nếu bạn trở nên nhận biết và sự đồng nhất với tâm trí bị mất, nếu bạn không còn là tâm trí, nếu bạn cảm thấy siêu việt lên trên tâm trí; thông minh nảy sinh. Thông minh là một loại thức tỉnh. Ngủ, bạn ngu. Thức, ngu xuẩn đã biến mất: lần đầu tiên, thông minh đi vào.

Có thể biết nhiều mà không biết tới bản thân bạn; thế thì biết đó toàn là ngu xuẩn. Chính điều đảo lại cũng là có thể: biết bản thân mình - và không biết cái gì khác. Nhưng biết bản thân mình là đủ để là thông minh; và người biết tới bản thân mình sẽ cư xử thông minh trong bất kì và mọi tình huống. Người đó sẽ đáp ứng một cách thông minh. Đáp ứng của người đó sẽ không là phản ứng; người đó sẽ không hành động từ quá khứ. Người đó sẽ hành động trong hiện tại; người đó sẽ ở đây-bây giờ.

Tâm trí ngu bao giờ cũng hành động từ quá khứ. Thông minh không cần phải bận tâm tới quá khứ. Thông minh bao giờ cũng trong hiện tại: tôi hỏi bạn một câu hỏi - thông minh của bạn trả lời nó, không từ kí ức của bạn. Thế thì bạn không ngu. Nhưng nếu chỉ kí ức trả lời nó, không thông minh - thế thì bạn không nhìn vào câu hỏi. Thực ra bạn không bận tâm về câu hỏi; bạn đơn giản mang câu trả lời làm sẵn.

Chuyện kể về Mulla Nasruddin là hoàng đế định tới thăm thị trấn của ông ấy. Dân làng sợ đối diện với hoàng đế lắm, cho nên tất cả họ đều đề nghị Nasruddin, "Xin ông đại diện cho chúng tôi. Chúng tôi là người ngu, dốt. Ông là người khôn ngoan duy nhất ở đây, cho nên xin ông xử trí cho tình huống này bởi vì chúng tôi không biết cung cách của triều đình, và hoàng đế lần đầu tiên tới."

Nasruddin nói, "Dĩ nhiên rồi. Tôi đã gặp nhiều hoàng đế rồi và tôi đã tới thăm nhiều triều đình rồi. Đừng lo."

Nhưng người ở triều đỉnh bản thân họ cũng lo về làng này, cho nên họ tới chỉ để chuẩn bị cho toàn thể tình huống. Khi họ hỏi ai sẽ đại diện cho dân làng, dân làng nói, "Mulla Nasruddin sẽ đại diện cho chúng tôi. Ông ấy là người lãnh đạo của chúng tôi, người hướng dẫn của chúng tôi, triết gia của chúng tôi."

Thế là họ huấn luyện cho Mulla Nasruddin, nói, "Ông không cần phải lo lắng nhiều quá. Nhà vua sẽ hỏi chỉ ba câu hỏi thôi. Câu hỏi thứ nhất sẽ là về tuổi của ông. Ông bao nhiêu tuổi?" Nasruddin nói, "Bẩy mươi."

"Vậy nhớ điều đó. Đừng kinh sợ quá bởi hoàng đế và triều đình. Khi ngài hỏi ông bao nhiêu tuổi, nói, 'Bẩy mươi' - không một lời thêm hay bớt; bằng không thì ông có thể bị khó khăn đấy. Thế rồi ngài sẽ hỏi ông đã phụng sự cho đền thờ làng được bao lâu rồi, ông đã là thầy giáo tôn giáo ở đây được bao lâu rồi. Vậy nói đích xác số năm ra. Ông đã phụng sự được bao lâu rồi?" Ông ấy nói, "Trong ba mươi năm."

Những câu hỏi đại loại thế này. Thế rồi hoàng đế tới. Những người đã huấn luyện cho Nasruddin, họ cũng đã huấn luyện cho hoàng đế nữa, nói, "Người ở làng này rất giản dị, và người lãnh đạo của họ có vẻ hơi ngu, cho nên xin bệ hạ rủ lòng thương và không hỏi cái gì khác. Đây là những câu hỏi...."

Nhưng nhà vua quên khuấy. Cho nê trước khi hỏi, "Ông bao nhiêu tuổi rồi?" nhà vua lại hỏi, "Ông đã hướng dẫn tâm linh cho thị trấn này được bao lâu rồi?"

Bây giờ, Nasruddin có câu trả lời cố định. Ông ấy nói, "Bẩy mươi năm."

Nhà vua nhìn với chút phân vân bởi vì người này trông không quá bẩy mươi, vậy mà ông ta đã là thầy giáo tôn giáo từ chính lúc lọt lòng sao? Thế rồi nhà vua nói, "Ta rất lấy làm ngạc nhiên. Vậy thế ông bao nhiêu tuổi?"

Nasruddin nói, "Ba mươi." Bởi vì đây là điều đã cố định: rằng đầu tiên ông ấy phải nói "bẩy mươi," thế rồi ông ấy phải nói "ba mươi." Nhà vua nói, "Ông điên sao?"

Nasruddin nói, "Thưa ngài, cả hai ta cùng điên - theo cách riêng của chúng ta! Ngài hỏi câu hỏi sai - và tôi phải trả lời câu trả lời đúng! Đây là vấn đề. Tôi không thể thay đổi được, bởi vì những người kia ở đây, những người đã huấn luyện cho tôi. Họ đang nhìn tôi. Tôi không thể thay đổi được, và ngài đang hỏi câu hỏi sai. Cả hai ta đều điên theo cách riêng của chúng ta. Tôi bị buộc phải trả lời câu hỏi đúng - đó là cái điên của tôi. Giá mà không có câu trả lời làm sẵn tôi chắc đã trả lời ngài đúng rồi, nhưng bây giờ có rắc rối. Và ngài đang hỏi câu hỏi sai, theo trình tự sai."

Điều này xảy ra cho tâm trí ngu xuẩn. Liên tục, quan sát trong bản thân bạn đi: Mulla Nasruddin là một phần của bạn đấy. Bất kì khi nào bạn trả lời một câu hỏi vì bạn có câu trả lời làm sẵn, bạn hành xử ngu xuẩn. Tình huống có thể thay đổi, tham chiếu có thể đã thay đổi, hoàn cảnh có thể đã thay đổi - và bạn hành động từ quá khứ.

Hành động từ hiện tại đi. Hành động từ việc không chuẩn bị đi. Hành động từ nhận biết của hiện tại; đừng hành động từ quá khứ. Thế thì bạn không ngu.

Bây giờ bạn có thể hiểu tại sao tôi nói tâm trí là ngu: bởi vì tâm trí chỉ là quá khứ. Tâm trí là quá khứ được tích luỹ, mọi điều bạn đã biết trong quá khứ. Cuộc sống liên tục thay đổi. Tâm trí vẫn còn như cũ - nó mang kí ức chết, thông tin chết. Hoàn cảnh thay đổi mọi khoảnh khắc, câu hỏi thay đổi mọi khoảnh khắc, hoàng đế thay đổi mọi khoảnh khắc - và bạn mang những câu trả lời cố định. Bạn bao giờ cũng sẽ trong rắc rối. Tâm trí ngu xuẩn là trong rắc rối, khổ sở. Chẳng vì cái gì. Duy nhất chỉ lí do này: rằng người đó quá sẵn sàng, quá được chuẩn bị.

Mọi khoảnh khắc vẫn còn không được chuẩn bị đi. Thế thì bạn vẫn còn hồn nhiên. Thế thì bạn không mang cái gì đó. Bất kì khi nào bạn có câu trả lời làm sẵn, bạn đều không nghe câu hỏi đích xác như nó vậy. Trước khi bạn nghe câu hỏi, câu trả lời đã bật ra trong tâm trí rồi; câu trả lời đã đứng giữa bạn và câu hỏi rồi. Trước khi bạn nhìn quanh và quan sát tình huống, bạn đã phản ứng.

Tâm trí là quá khứ, tâm trí là kí ức - đó là lí do tại sao tâm trí là ngu, mọi tâm trí. Bạn có thể là một dân làng, chẳng biết gì mấy về thế giới. Bạn có thể là giáo sư ở Đại học , biết nhiều. Điều đó không tạo ra khác biệt gì. Thực ra thỉnh thoảng chuyện xảy ra là dân làng thông minh hơn - vì họ chẳng biết gì. Họ phải dựa vào thông minh. Họ không thể dựa vào thông tin của họ, họ chẳng có gì. Nếu bạn tỉnh táo bạn có thể thấy phẩm chất của hồn nhiên trong dân làng. Người đó như trẻ con.

Trẻ con thông minh hơn người lớn, thông minh hơn người già. Đó là lí do tại sao trẻ con có thể học dễ dàng thế. Chúng thông minh hơn. Tâm trí còn chưa có đó. Chúng là vô tâm trí. Chúng không mang quá khứ nào; chúng không có. Chúng đang di chuyển, vẩn vơ, ngạc nhiên với mọi thứ. Chúng bao giờ cũng nhìn vào tình huống. Thực ra chúng chẳng có gì khác để nhìn - không câu trả lời làm sẵn. Thỉnh thoảng trẻ con trả lời theo cách hay và sống động thế mà người già không thể trả lời được. Người già bao giờ cũng có tâm trí ở đó để trả lời cho chúng. Họ có kẻ phục vụ, cái máy, cái máy tính sinh học; và họ dựa trên nó. Bạn càng trở nên già, bạn càng trở nên ngu hơn.

Tất nhiên, người già nghĩ họ đã trở nên rất khôn ngoan, bởi vì họ biết nhiều câu trả lời. Nếu đây là khôn ngoan thì máy tính sẽ là kẻ khôn ngoan nhất. Thế thì không cần bạn nghĩ về Phật và Jesus và Zarathustra, không. Máy tính sẽ khôn ngoan hơn bởi vì chúng biết nhiều hơn. Chúng có thể biết tuốt; chúng có thể được nạp cho mọi thông tin. Và chúng sẽ vận hành tốt hơn vì chúng là máy.

Không, trí huệ không liên quan chút nào tới tri thức. Nó liên quan tới nhận biết, thông minh, hiểu biết. Tỉnh táo hơn đi. Thế thì bạn không trong nắm bắt của tâm trí. Thế thì bạn có thể dùng tâm trí bất kì khi nào được cần nhưng bạn không bị tâm trí dùng. Thế thì tâm trí không còn là người chủ - bạn là chủ và tâm trí là tớ. Bất kì khi nào bạn cần đầy tớ bạn hỏi, nhưng bạn không bị cai trị, bạn không bị tâm trí thao túng.

Tình huống bình thường của tâm trí là tới mức dường như chiếc xe thao túng người lái. Chiếc xe nói, "Đi theo đường này," và người lái xe phải tuân theo. Thỉnh thoảng chuyện xảy ra: phanh hỏng, bánh xe không chạy tốt, bạn muốn đi xuống nam còn xe đi lên bắc. Máy đã hỏng; điều đó là ngẫu nhiên. Nhưng ngẫu nhiên đó đã trở thành bình thường với tâm trí con người. Một cách liên tục bạn muốn đi đâu đó và tâm trí muốn đi đâu đó khác. Bạn muốn đi tới đền chùa và tâm trí nghĩ tới rạp hát, và bạn thấy bản thân bạn ở rạp hát. Có thể bạn đã ra khỏi nhà để đi tới đền chùa để cầu nguyện... bạn đang ngồi ở rạp hát - bởi vì xe muốn đi theo đường đó và bạn không có khả năng điều khiển.

Thông minh là tính làm chủ - làm chủ mọi cái máy bên trong bạn. Thân thể là cái máy, tâm trí là cái máy: bạn trở thành người chủ. Không ai thao túng bạn; tâm trí đơn giản nhận lệnh của bạn. Đây là thông minh.

Cho nên nếu bạn hỏi, "Một số người có ngu hơn người khác không?" - điều đó còn tuỳ. Như tôi thấy, mọi người thông thái đều là người ngu thông thái, người ngu không thông thái. Đây là hai phân loại bình thường, bởi vì phân loại thứ ba là duy nhất tới mức bạn không thể làm cho nó thành phân loại được. Hãn hữu, thỉnh thoảng, vị Phật xảy ra: vị Phật là thông minh. Nhưng thế thì ông ấy có vẻ như nổi dậy vì ông ấy không cho bạn câu trả lời quá khứ, câu trả lời cố định. Ông ấy đi xa khỏi đường cao tốc; ông ấy có con đường riêng của mình. Ông ấy làm ra con đường riêng của mình. Thông minh bao giờ cũng đi theo bản thân nó. Nó không theo bất kì ai. Thông minh làm ra con đường riêng của nó. Chỉ người ngu mới đi theo.

Nếu bạn ở đây với tôi bạn có thể ở đây theo hai cách. Bạn có thể ở đây một cách thông minh với tôi: thế thì bạn sẽ học từ tôi, nhưng bạn sẽ không đi theo. Bạn sẽ theo thông minh riêng của bạn. Nhưng nếu bạn ngu bạn không bận tâm về việc học: bạn đơn giản theo tôi. Điều đó có vẻ đơn giản, ít rủi ro, ít nguy hiểm, an ninh hơn, an toàn, bởi vì bạn bao giờ cũng có thể đổ trách nhiệm lên tôi; nhưng nếu bạn chọn cách thức an toàn an ninh, bạn đã chọn chết. Bạn đã không chọn sống. Sống là nguy hiểm và rủi ro. Thông minh bao giờ cũng sẽ chọn sống - với bất kì giá nào, bất kì cái gì rủi ro - bởi vì đó là cách duy nhất để sống động.

Thông minh là phẩm chất của nhận biết. Người thông minh không ngu.

Trích từ "Yoga: Alpha và Omega - Tập 6"

Monday, May 12, 2014

Steve Jobs & Thiền

Về cuộc đời Jobs, có một điểm đặc biệt người ta ít để ý, đó là Thiền. Jobs bắt đầu tìm hiểu Thiền từ rất sớm. Tư tưởng của Thiền đã ảnh hưởng đến triết lý sống và tư duy trong công việc của ông.

Một khoảnh khắc Thiền của Steve Jobs - Ảnh chụp tại nhà, năm 1982.
Một khoảnh khắc Thiền của Steve Jobs - Ảnh chụp tại nhà, năm 1982.

Tư tưởng của Thiền đã ảnh hưởng đến triết lý sống và tư duy trong công việc của Steve Jobs.

Steve Jobs, Chủ tịch của Apple, là một doanh nhân thành công và được ngưỡng mộ bậc nhất thế giới. Thế nên, người ta thường chỉ biết về khía cạnh công việc của ông, tức quá trình ông đưa Apple thành một trong những công ty có giá trị thị trường cao nhất thế giới.

Đi tìm minh triết

Năm 17 tuổi, Jobs bước vào đại học với một nỗi băn khoăn. “Tôi hoàn toàn không biết tôi muốn gì ở cuộc sống này, cũng như không biết làm thế nào để việc học đại học có thể giúp tôi tìm ra câu trả lời”. Điều Jobs thấy rõ nhất là ông đang tiêu tốn khoản tiền tiết kiệm cả đời của cha mẹ, những người thuộc giai cấp lao động, cho những gì ông “không hề thấy có giá trị.” Jobs bỏ học và sống một cách cơ cực sau đó.

Jobs phải ngủ nhờ dưới sàn phòng của bạn. Để có tiền mua thức ăn, ông phải thu từng chai nước ngọt trả lại cho đại lý để nhận khoản đặt cọc 5 xu/chai. Mỗi tối Chủ nhật, Jobs phải lội bộ hơn 11 km xuyên thành phố để có được một bữa ăn ngon miễn phí tại đền Hare Krishna (Ấn Độ Giáo). 

Nói về những ngày tháng cơ cực đó, Jobs chia sẻ: “Tôi yêu khoảng thời gian này. Phần lớn những gì tôi tiếp xúc từ sự tò mò và trực giác của mình về sau đều trở nên vô giá đối với tôi”. Thường xuyên đến đền Hare Krishna vào mỗi tối Chủ nhật là cơ duyên cho hành trình tìm minh triết tại Ấn Độ của Jobs sau đó.

Năm 1973, Jobs cùng một người bạn là Daniel Kottke, lang thang khắp Ấn Độ để “tìm kiếm sự giác ngộ tâm linh”. Không may cho Jobs, vị minh sư bí ẩn mà ông muốn diện kiến vừa qua đời. Không tìm được sự giác ngộ tâm linh như mong muốn, ông trở về California trong trang phục của một nhà sư.

Trở về Mỹ, Jobs dành nhiều thời gian tìm hiểu về Thiền tại Trung tâm Thiền Los Altos ở California trước khi nghiên cứu sâu hơn về Thiền dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Kobun Chino Otogawa, người về sau được Jobs mời làm “cố vấn tâm linh” cho công ty phần mềm NeXT.

Năm 1976, sau 3 năm tầm sư học đạo, Jobs cùng người bạn cũng bỏ học đại học như mình là Steve Wozniak thành lập Apple. Nhìn lại chặng đường Jobs đã đi qua, có thể thấy những tư tưởng Thiền mà ông tiếp xúc khi còn trai trẻ đã để lại nhiều dấu ấn trong cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Tư tưởng “Ma”, “Sơ tâm” và chìa khóa đến sự vĩ đại

Ma là một tư tưởng cốt lõi của Thiền, lý giải mối quan hệ giữa tánh không (emptiness) và hình tướng (form), hay làm thế nào mà sự trống rỗng hình thành nên vật thể. Hãy lấy chiếc nhẫn làm ví dụ, điều gì khiến cho vật này có ý nghĩa? 

Câu trả lời là chính khoảng không gian trống rỗng mà vòng kim loại chứa đựng chứ không phải bản thân vòng kim loại đó. Đây cũng là bí mật trong triết lý thiết kế sản phẩm của Jobs. Nhờ đó, sản phẩm của Apple đã đạt đến sự tiện giản đến mức gần như trống rỗng. 

Apple sẵn sàng loại bỏ tất cả chi tiết, nút bấm không cần thiết để sản phẩm của mình sở hữu “những khoảng trống đầy ý nghĩa”, tạo nên sức hút khó cưỡng lại đối với người sử dụng.

Sơ tâm tức cái tâm của người mới bắt đầu. Khái niệm này xuất phát từ Thiền Phật giáo được Thiền sư người Nhật Shunryu Suzuki phổ biến rộng rãi ở Mỹ trong thập niên 1960. Khái niệm nói đến sự cởi mở và mức độ sẵn sàng học hỏi của một người. “Với tâm trí của người mới bắt đầu, bao giờ cũng xuất hiện nhiều cơ hội, nhưng với tâm trí của một chuyên gia, thì hầu như không có cơ hội nào”, Thiền sư Suzuki từng giảng như thế về Sơ tâm.

Jobs là “người mới bắt đầu” đích thực. Thành lập Apple ở tuổi 20 cùng người bạn là bước đi đầu tiên của ông. Sau 10 năm, từ công ty có trụ sở tại phòng ngủ và ga-ra, Apple đã vươn mình trở thành công ty trị giá 2 tỉ USD với hơn 4.000 nhân viên. Ở tuổi 30, Jobs bị chính công ty mình sáng lập nên sa thải.

“Tôi không biết phải làm gì trong nhiều tháng sau đó. Tôi gần như muốn trốn chạy khỏi mọi thứ. Nhưng tôi dần nhận ra rằng tôi vẫn say mê những gì mình làm. Nên tôi quyết định khởi đầu lại. Khi đó tôi chưa nhận ra việc bị sa thải chính là điều tốt đẹp nhất từng xảy đến với tôi. Gánh nặng thành công được thay thế bằng sự thoải mái khi được trở lại thành một người mới bắt đầu, không chấp vào bất cứ thứ gì. Điều đó đã giải phóng tôi, cho tôi bước vào những giai đoạn sáng tạo nhất của cuộc đời”, Jobs cho biết.

Và như thế, NeXT và Pixar lần lượt ra đời. Cả 2 công ty đều mang đậm dấu ấn đột phá của Steve Jobs. NeXT tiên phong trong lĩnh vực thiết kế phần mềm máy tính và nổi tiếng nhờ một tập thể thiên tài do Jobs tập họp được. Còn Pixar dưới sự dẫn dắt của Jobs chính là công ty đầu tiên trên thế giới sản xuất bộ phim hoạt hình từ đồ họa máy tính, Toy Story. 

Hiện nay, Pixar vẫn là hãng phim đồ họa thành công nhất thế giới. Trở lại “mái nhà xưa” Apple năm 1997 để tiếp quản chiếc ghế Tổng Giám đốc, Jobs tiếp tục vận dụng lối tư duy của “người mới bắt đầu” để từng bước khai sinh ra các sản phẩm Apple “trước nay chưa hề có” nhưng mang lại thành công bền vững cho Apple từ đó về sau. Đó là iMac, Max OS X, iPod, iTunes, iPhone và gần đây nhất là iPad.

Quan niệm về cái chết và quá trình ra quyết định

Jobs từng chia sẻ quan điểm của ông về cái chết cũng như tầm quan trọng của việc nhận biết đúng đắn về cái chết:

“Không ai muốn chết cả. Thậm chí những người thích lên thiên đàng cũng không muốn chết. Tuy nhiên, cái chết là đích đến chung của mỗi chúng ta và không ai có thể tránh khỏi. Nhưng Cái Chết thật ra lại là một trong những tạo vật tuyệt vời nhất của Sự Sống. Nó là tác nhân làm thay đổi cuộc sống, dẹp bỏ cái cũ, dọn đường cho cái mới.

“Luôn ghi nhớ rằng mình sẽ chết chính là công cụ quan trọng nhất giúp tôi ra những quyết định lớn trong cuộc sống. Vì hầu như mọi thứ như sự kỳ vọng, niềm tự hào của người khác, hay sự sợ hãi thất bại đều tan biến khi đối diện với cái chết”, Jobs cho biết và nói tiếp: “Luôn ghi nhớ rằng mình sẽ chết chính là cách tốt nhất giúp tôi tránh được cái bẫy tư duy khiến tôi tin rằng mình có một điều gì đó để mất. Bản thân tôi vốn đã không có gì nên không có lý do gì để không nghe theo con tim mình cả”.

Ông cũng cho rằng thời gian của bất cứ ai cũng có giới hạn nên đừng lãng phí nó mà sống cuộc đời của người khác. Đừng mắc kẹt vào những giáo điều, sống với quan điểm của người khác. Đừng để những huyên náo từ quan điểm của người khác dìm chết tiếng nói nội tâm của mình. Và quan trọng nhất là dũng cảm làm theo con tim và trực giác. Theo một cách nào đó, chúng đã biết những gì một người thật sự muốn trở thành. Những thứ khác đều không quan trọng.

Jobs còn đề cập đến một vấn đề quan trọng: hãy dám là chính mình, dám sống cuộc đời của mình, sống với tiếng nói của con tim và trực giác, để trở thành những gì mình thật sự muốn trở thành. Ông khuyên mọi người: “Hãy luôn khát khao và hãy dám dại khờ”, để có thể làm nên những điều vĩ đại. 

Theo Hoàng Trung
NCĐT

Một khoảnh khắc Thiền của Steve Jobs - Ảnh chụp tại nhà, năm 1982.
Một khoảnh khắc Thiền của Steve Jobs - Ảnh chụp tại nhà, năm 1982.

Thursday, April 24, 2014

Cách thở khác nhau như thế nào?

Mức gắn bó giữa hơi thở và sự sống con người là điều không cần bàn cãi. Hơi thở tắt thì sự sống cũng tắt theo. Tuy thế, có lẽ rất ít người lưu tâm tới hơi thở cũng như cách thở. Trong vòng nửa thế kỷ nay, do sự hiểu biết nhiều hơn về nếp sống Đông Phương của người Tây Phương nên đã có những công trình nghiên cứu về cách thở để trị bệnh trong y học. Nhưng đối với đám đông thì những chỉ dẫn về cách thở để chữa bệnh này nhiều khi vẫn là một mớ những rối mù khó định.

Riêng đối với những người học võ, nhất là những người đã đạt tới một trình độ thành tựu cao thì ý thức về tầm mức quan trọng của hơi thở rất rõ rệt. Hơi thở không chỉ giúp con người điều trị được một số bệnh hoạn mà còn có thể giúp con người tăng thêm sức lực của mình. Tất nhiên, trong cả võ thuật cũng như trong y thuật điều chủ yếu vẫn là phải biết cách thở.

Bằng một diễn tả giản lược nhất, người ta cho rằng có 5 kỹ thuật thở khác nhau. Những kỷ thuật thở này hoặc do tự nhiên theo các điều kiện thể chất hoặc do sự rèn tập đã đạt tới những trình độ không giống nhau. 5 kỹ thuật thở đó là
  1. Thở từ cổ lên
  2. Thở từ ngực trở lên
  3. Thở từ bụng trở lên
  4. Thở từ xương sống
  5. Thở qua các lỗ chân lông
Người thở từ cổ lên là những người mà sức lực đã vào thời tàn lụi. Đây là cách thở của những người đã kề cận với cái chết.

Người thở từ ngực trở lên là người có tình trạng sức khỏe bình thường.

Người thở từ bụng trở lên là những người luyện tập võ thuật đã đạt tới trình độ trung cấp.

Người thở từ xương sống là những người rèn luyện võ thuật hoặc Thiền quán đạt tới mức độ cao cấp.

Thở bằng lỗ chân lông là kỹ thuật thở của các đạo sĩ Yoga.

Trích Tìm Hiểu Võ Thuật số 3 "Võ tự vệ Arnis"

Wednesday, April 23, 2014

Đồng hồ sinh học, Kinh lạc vận hành theo quy luật

Sự vận hành của kinh lạc trong cơ thể người cũng tuân theo quy luật, 12 canh giờ (một canh giờ = 2 tiếng) trong một ngày lần lượt tương ứng với 12 kinh lạc và mỗi kinh lạc lại có thời gian hoạt động riêng. Đây là quy luật “Tý ngọ lưu chú” của kinh lạc.

Từ 3-5 giờ sáng (giờ Dần): Phế kinh hoạt động khiến các triệu chứng ho, sốt, đổ mồ hôi bộc phát dữ dội hơn. Đây là thời điểm Phế kinh đẩy mạnh sức đề kháng tự chữa lành.

Từ 5-7 giờ sáng (giờ Mẹo): Đại tràng co bóp mạnh nhất, lúc này nên đi đại tiện để thải chất độc.

Từ 7-9 giờ sáng (giờ Thìn): Dạ dày hoạt động tích cực nhất, đây là thời điểm lý tưởng để ăn sáng.

Từ 9-11 giờ trưa (giờ Tỵ): Lá lách hoạt động và hấp thu tốt nhất.

Từ 11-1 giờ trưa (giờ Ngọ): Tâm kinh hoạt động. Đây cũng là thời gian âm dương thiếu cân bằng nhất trong ngày nên con người dễ bị mệt mỏi, vì vậy cần nghỉ ngơi để tránh mắc bệnh.

Từ 1-3 giờ chiều (giờ Mùi): Ruột non bài tiết và hấp thu tốt nhất, vì vậy nên ăn trưa trước 1h chiều.

Từ 3-5 giờ chiều (giờ Thân): Bàng quang hoạt động mạnh nên cần uống nhiều nước. Uống nước trong thời gian này mang lại hiệu quả cao nhất.

Từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối (giờ Dậu): Thận hoạt động tích cực, do vậy thích hợp những người bị bệnh ở thận và bàng quang xoa bóp huyệt vị, thả lỏng cơ thể và tâm trạng.

Từ 7-9 giờ tối (giờ Tuất): Tâm bào kinh hoạt động. Lúc này tim và thần kinh hoạt động mạnh nhất.

Từ 9-11 giờ tối (giờ Hợi): Tam tiêu kinh hoạt động. Đây là thời gian hệ nội tiết hoạt động mạnh, nên cần đi ngủ để tránh mất cân bằng nội tiết tố.

Từ 11 giờ tối đến 1 giờ sáng (giờ Tý): Đảm kinh hoạt động.

Từ 1-3 giờ sáng (giờ Sửu): Can kinh hoạt động. Gan, mật là cơ quan khử độc, bài tiết, miễn dịch quan trọng của cơ thể nên chúng ta cần phải nghỉ ngơi trong khoảng thời gian quý báu này.

Người xưa đặc biệt chú trong quy luật “mặt trời mọc làm việc, mặt trời lặn nghỉ ngơi” chính là để đảm bảo và nâng cao chức năng điều tiết cũng như phục hồi của kinh lạc.

Hoàng đế nội kinh viết: “Nửa đêm kinh mạch trở về, mọi người đều phải ngủ” Tại sao như vậy? Chúng ta nên biết rằng, khi cơ thể nằm xuống thì các luồng kinh khí của toàn thân sẽ nhanh chóng quay về phủ tạng tương ứng. Một khi kinh khí đã về đúng vị trí của nó thì cơ thể tự nhiên sẽ cảm thấy hơi lạnh, cho nên lúc này người ta thường muốn kéo chăn đắp, dù chỉ che đến ngang hông. Sau một ngày hoạt động, cơ thể chúng ta tiêu hao không ít tinh lực, nên tối đến, kinh khí phải quay về phủ tạng để phục hồi. Vì vậy, nếu chúng ta thức khuya, kinh khí sẽ không thể trở về đúng vị trí của nó khiến phủ tạng không tự phục hồi được. Trong trường hợp như vậy, kinh khí không những không bảo dưỡng cho phủ tạng mà tiếp tục bị tiêu hao từ ngày sang đêm. So với ban ngày, thức khuya làm tiêu hao rất nhiều năng lượng. Cho nên, có những người chỉ cần thức một đêm, ba ngày sau cũng chưa lấy lại sức lực. Có thể thấy, việc thức khuya gây tổn hại rất lớn cho sức khỏe, nhanh chóng dẫn đến chứng hư hàn và khiến chất độc ứ đọng trong cơ thể. Thức khuya lâu ngày sẽ thành thói quen, làm đồng hồ sinh học bị lệch, kéo theo những hậu quả nghiêm trọng, và có thể xuất hiện nhiều căn bệnh nan y. Vì vậy, chúng ta cần rèn luyện thói quen ngủ sớm.

Qua quá trình điều tra khảo sát, nghiên cứu về sức khỏe và tuổi thọ, tác giả đả phát hiện bí quyết để sống khỏe mạnh, trường thọ thật ra rất đơn giản. Cơ bản, mỗi người đều phải tuân theo bốn quy luật tự nhiên: một là ngủ trước 10 giờ tối, hai là ăn uống đơn giản, chủ yếu là cá và rau xanh; ba là thường xuyên vận động, bốn là khoan dung độ lượng, vui vẻ và thân thiện với mọi người.

Trích: “Cẩm nang dưỡng sinh thông kinh lạc – y sư Thái Hồng Quang

Thiền & Ngủ

Có người nói ngủ chiếm một phần ba cuộc đời, uổng phí quá! Đừng ngủ thì lợi hơn! Nhưng lợi đâu không thấy chỉ thấy mất ngủ vài ba đêm thì đầu óc không sảng khoái để làm việc, năng suất thấp, mất ngủ lâu dài hơn thì dẫn tới bệnh tâm thần và cuối cùng thì thay vì cuôc sống dài ra lại bị rút ngắn đi một cách đáng tiếc!

Không biết tại sao ngày càng có nhiều người mất ngủ trên thế giới phẳng này! Thuốc ngủ là một trong những thứ thuốc bán chạy nhất hiện nay trên thế giới. Hình như đời sống ngày càng bận rộn, ngày càng náo động, ngày càng bất an, đầy “điên đảo mộng tưởng” thì con người ngày càng mất ngủ. Và đó cũng là lý do tại sao ngày người ta càng cần tới… Thiền.

Phải, chỉ có thiền mới có thể “cứu rỗi” một thế giới đầy náo lọan như vậy! Thiền cũng có thể thay cho… ngủ, dù thiền không phải là ngủ, trái lại thiền là tỉnh giác. Thế nhưng, về mặt sinh học, thiền tiêu hao năng lượng rất ít, ít hơn cả giấc ngủ, nhờ đó tiết kiệm đựơc năng lượng, không phải tiêu hao cho cái tâm náo động. Khi tâm được an, “an tịnh tâm hành” thực sự thì năng lượng tiêu hao giảm hơn một nửa. Nhưng không phải ai cũng thành công với thiền nên “một nghệ thuật ngủ” là cần thiết để giảm bớt… thuốc ngủ!

Có một “nghệ thuật… ngủ” như sau: Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ ngay.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. 
Cơ tắc san hề khốn tắc miên!

Đừng ráng. Ráng thì khó mà dỗ lại giấc ngủ! Chưa buồn ngủ thì kệ nó, việc gì phải ngủ! Cơ thể sẽ biết cách tự điều chỉnh, nghĩa là biết cách ngủ bù!

Tiếng Việt ta thiệt hay. Không nói mắc ngủ mà nói “buồn ngủ”? Vì buồn mới dễ ngủ. Vui khó ngủ. Vui là kích thích, là hào hứng, là rộn rã. Thở gấp, tim đập nhanh, huyết áp tăng. Buồn, mọi thứ xìu xuống. Giảm kích thích. Thở chậm, tim đập chậm và huyết áp cũng giảm.

Cho nên cách dỗ giấc ngủ tốt nhất là làm cho cơ thể rơi vào trạng thái “buồn”. Đó là cách tách “thân xác” ra khỏi “thân hơi”. Buông xả toàn bộ thân xác, như rã nó ra, xì nó xuống, làm cho nó xẹp lép, hết căng. Đặt tay chân trong tư thế tự nhiên không gò ép, miễn dễ chịu. Khi “thân xác” đã xẹp lép, lửng lơ như vậy rồi thì tập trung chú ý tới “thân hơi”, tức là hơi thở của ta. Không cần phải cố gắng điều khiển hơi thở, ráng sức điều hoà hơi thở chi cả. Bởi còn ráng, còn cố gắng thì còn căng, không gọi là buông xả đựơc! Cứ để “thân hơi” tự nhiên, nó sẽ biết lúc nào vào lúc nào ra, lúc nào nhiều lúc nào ít. Nó có cơ chế điều chỉnh tự động tùy nồng độ dưỡng khí (O2) và thán khí (CO2) tác động lên trung khu hô hấp ở hành tủy. Vậy là ta rơi vào… giấc ngủ lúc nào không hay!

Cái khó lúc mới tập là ta thường dễ bị tràn ngập bởi những ý tưởng này nọ, những tính toán, những giận hờn, những âu lo… làm ta sôi lên. Mà đã sôi lên thì có trời mới ngủ đựơc! Lúc đó nếu ta biết cách dùng thân hơi “dụ” thân xác, bằng cách tập trung theo dõi xem thân hơi đang dở trò gì, xì xọp ra sao, nhanh chậm, nhiều ít ra sao một lúc ta sẽ cắt đứt được dòng nghĩ tưởng. Thần kinh của ta trong cùng một lúc không thể nghĩ đến hai việc. Đã nghĩ việc này thì quên việc kia. Khi ta nghĩ đến thân hơi, tập trung quan sát nó, thì ta đã đánh lạc hướng những cái nghĩ tưởng khác. Đã có người khuyên nên dỗ giấc ngủ bằng cách đếm sao trên trời hoặc nghĩ đến một dòng sông tuổi thơ, một bãi biển vắng người…! Thật ra đếm sao cũng còn căng thẳng, mất công nhớ số; nghĩ đến dòng sông tuổi thơ thì nhớ chuyện tắm ở truồng… Cứ chuyện này dắt chuyện kia mãi không ngớt.

Chỉ có cách tìm một cái gì đó thật trung tính, không tạo kích thích thì đó là cách quan sát thân hơi. Thân hơi sẵn có, không phải tìm kiếm đâu xa, ngay trước mũi mình, cũng không đòi nghĩ tưởng gì cả. Bởi ta phải thở bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Thở ở trong ta mà như ở ngoài ta, chẳng cần ta, chẳng có ta. Thử hít một hơi thiệt dài, thiệt mạnh, thiệt sâu xem sao? Chỉ một lúc là đầu váng mắt hoa, phải tự động thở ra ngay, không muốn không được. Thử thở ra một hơi thiệt dài, thiệt mạnh, thiệt lâu xem sao! Chỉ một lúc là nó tự động thở vào, không muốn không đựơc! Nói cách khác, cái “thân hơi” đó nó tự ý, tự động. Do đó, ta có thể dùng thân hơi như một công cụ để… dụ thân thể quên đi tất cả những chuyện khác. Mà đã quên thì hết căng, hết căng thì xìu, xìu thì… buồn, buồn thì… ngủ vậy!

Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc - Lê Thi Kiểm ST
http://www.khoahocsaigon.com/lang-thang-do-day/suc-khoe-khoe-song/thin--ng

Tuesday, April 22, 2014

Mở Luân Xa

Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra चक्र mang ý nghĩa là “bánh xe” hay “vòng tròn”, và đôi khi được dùng để chỉ đến “bánh xe của luân hồi”, đôi khi còn được gọi là luân xa theo âm Hán Việt. Một số truyền thống miêu tả 5 hay 7 chakras, một số khác là 8.

Các chakra được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Mỗi chakra liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, một phần tử cổ điển (nước, lửa, khí, đất), một màu sắc nào đó và nhiều đặc điểm khác. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi chakra.



*Để mở 1 luân xa, phương pháp thực hành của tôi là tĩnh thiền, tư thế ngồi kiết già hoặc bán già, thư giãn, thả lỏng toàn thân cột sống thẳng, day/bấm huyệt và dùng sóng âm (hé nhỏ miệng và rung âm) tương ứng với mỗi luân xa. *

Luân xa 1(Root Chakra) 

(hay còn gọi là Hỏa Xà, hay Kundalini, hay Lửa Tam Muội,The Red Root ) 
Luân xa này có tên là MOOLADHARA. Trong đó: MOOL = gốc rễ, cội nguồn, ADHARA = hỗ trợ.
Trung tâm này có hình bốn cánh hoa, nằm ở dưới đốt xương cùng hình tam giác. Trung tâm này nằm ở ngoài cột sống và ứng với khu vực xương chậu về mặt giải phẫu. LX này quản lý sự bài tiết của chúng ta, kể cả hoạt động tình dục.
Tuy vậy, Kundalini phải đi lên xuyên qua 6 Luân xa, Mooladhara bảo vệ sự trong trắng và tinh khiết của Kundalini vào thời điểm nó thức dậy. Mooladhara là sự trong sáng của chúng ta và ta nên biết rằng sự trong sáng không bao giờ có thể bị hư hại. Việc suy nghĩ quá nhiều và ham thú tình dục quá nhiều sẽ làm yếu trung tâm này. Mặc cho tất cả sự phóng túng ngược với quy luật tự nhiên, Mooladhara vẫn ở tình trạng ngủ yên hay tình trạng đau ốm mà có thể chữa và bình thường hoá trở lại bằng việc đánh thức Kundalini.
Sự liên quan:
  • Màu: đỏ (da cam)
  • Nguyên tố: đất
  • Hành tinh: Sao Hoả
  • Ngày: Thứ Ba
  • Đá: San hô
  • Đặc tính: Sự trong sáng, Hiểu biết, Ngây thơ, Dũng cảm
  • Điều khiển các cơ quan: Tuyến tiền liệt, Dạ con (đối với nữ), Tình dục, Bài tiết, và Mùi vị.

Thực hành luân xa 1: 2 bàn tay thả lỏng để ngửa lòng bàn tay lên, bấm ngón cái và ngón trỏ lại. Tập trung ý vào luân xa số 1 ở vị trí giữa bộ phận sinh dục và hậu môn (có thể nhíu lại và thả ra được thì càng tốt).
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm UHH (Ư) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Luân xa 2 (Scaral Chakra)

có tên gọi là SWADISTHANA. Trung tâm này có hình 6 cánh hoa và nằm ở bụng dưới. Trung tâm này ứng với hệ thống động mạch chủ, cung cấp cho chúng ta năng lượng sáng tạo và khả năng tư duy trừu tượng. Trung tâm này còn cung cấp cho bộ não năng lượng để chuyển hoá các tế bào mỡ thành các tế bào não.

Việc suy nghĩ quá nhiều và lập kế hoạch vị lai quá mức sẽ làm yếu trung tâm này sức tập trung của con người sẽ kém đi. Tạng gan liên quan đến sự chú ý cũng chịu sự chi phối của trung tâm này. Trung tâm này còn điều khiển chức năng của tuyến tuỵ, tử cung, và một phần của ruột. Khi Kundalini thức giấc và khai mở trung tâm này, con người sẽ trở nên rất sáng tạo, năng động và tự nhiên trong tất cả các hoạt động.
Sự liên quan:
  • Màu: Vàng
  • Nguyên tố: Lửa
  • Hành tinh: Sao Thuỷ
  • Ngày: Thứ Tư
  • Đá: Ametic (thạch anh tím)
  • Đặc tính: Sáng tạo, Thẩm mỹ, Tư duy trừu tượng, Đam mê thuần khiết
  • Điều khiển các cơ quan: Gan, Tử cung, Tuyến tuỵ (lá lách), Bài tiết, và Thị lực
Thực hành luân xa 2: Đặt 2 bàn tay của bạn trên đùi, lòng bàn tay trái ở dưới bàn tay phải, các ngón trái ở dưới chạm nhẹ vào mặt sau các ngón tay phải ở trên, 2 ngón cái bấm nhẹ vào nhau. Tập trung ý vào luân xa 2 nằm ở dưới đốt xương cụt của cột sống.
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm OOO (Ù) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Luân xa 3 (Navel Chakra)

có tên là NABHI. Trung tâm này có hình 10 cánh hoa và nằm sau vùng rốn. Trung tâm này ứng với hệ thống mặt trời (đám rối dương), hệ thống mà cho chúng ta năng lượng để duy trì các thứ bên trong. Trung tâm này chi phối sự tiêu hoá và trông coi Dạ dày, Ruột, và một phần tạng Gan. Nhịp điệu sinh học được điều chỉnh bởi tạng Tỳ (lá lách) cũng được điều khiển bởi Nabhi. Trung tâm này chăm sóc sức khoẻ và sự tiến hoá con người. Khi Kundalini đi lên và xuyên qua trung tâm này như một người tìm kiếm, người này sẽ trở nên hài lòng từ bên trong và hoàn toàn rộng lượng.
Sự liên quan:
  • Màu: Xanh lá cây
  • Nguyên tố: Nước
  • Hành tinh: Sao Mộc
  • Ngày: Thứ Năm
  • Đá: Ngọc lục bảo
  • Đặc tính: Tiến triển, Rộng lượng, Ngay thẳng, Nuôi dưỡng
  • Điều khiển các cơ quan: Dạ dày, Lá Lách, Ruột, Gan (một phần), Vị giác

Trước khi đi vào Luân xa thứ 4, chúng ta cần biết về 1 vùng trống (VOID) (link tại đây: http://www.sahajayoga.ca/ChakraPresentation/voidarea.htm)

Bao quanh Luân xa thứ 3 và Luân xa thứ 4 là một vùng có tác dụng hợp nhất các mặt tồn tại như Nhân cách, ảnh hưởng của hành tinh và sức hút trái đất lên sự sống chúng ta, cách cư xử và sự nuôi dưỡng về mặt vật lý. Đây là một vùng ảnh hưởng bên ngoài.
Nó thể hiện chân không (vacuum), cái đã tách mức độ nhận thức của chúng ta ra khỏi chân lý, và trong khi chúng ta vẫn ở trạng thái chưa được giải thoát. Khi Kundalini đi đến vùng trống này, sự tập trung của chúng ta được kéo ra từ biển ảo tưởng đến sự nhận biết Như thực. Đây là trung tâm của mười người thầy nguyên thủy, những người đã hoá thân hiện hữu để dẫn dắt nhân loại đến địa hạt của chân lý và thực tại. Khi kundalini vượt qua khu vực chân không này, con người trở thành người thầy của Chính mình và tất cả nhưng quy luật tự nhiên thuộc về bẩm sinh sẽ được đánh thức. Những người như thế trở nên rất trung thực, là những người lãnh đạo có tài và có sức hấp dẫn trong tất cả biểu hiện và diễn cảm của mình. Mười vị thầy nguyên thủy là:
  • Raja Janak - Ấn Độ 
  • Abraham - Mesopotamia 
  • Moses - Ai cập 
  • Zooraster - Ba Tư 
  • Lao Tse - Trung Quốc 
  • Confucius - Trung Quốc 
  • Socrates - Hy Lạp 
  • Guru Nanak - Ấn Độ 
  • Shridi Sainath - Ấn Độ
Thực hành luân xa 3: Áp 2 bàn tay lại các ngón dũi thẳng, dính ở đỉnh và chĩa ra phía trước, đặt 2 bàn tay ở vùng phía trước dạ dày thấp hơn 1 chút so với đám rối dương (solar plexus). 2 ngón cái bắt chéo, ngón cái phải nằm trên Tập trung ý vào luân xa 3 nằm trên cột sống vị trí trên rốn một chút (giữa dạ dày và chấn thủy).
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm OH (Ồ) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Luân xa 4 (Heart Chakra)

có tên là ANAHATHA. Trung tâm này có hình 12 cánh hoa và nằm sau xương ức ở trên cột sống. Trung tâm này ứng với hệ thống mạch máu chủ, sản xuất các kháng thể cho đến hết tuổi 12. Những kháng thể này lưu thông trong hệ thống của chúng ta, giúp chống lại sự tấn công về thân thể hay tinh thần. Khi có sự tấn công về mặt vật lý hay tinh thần trên con người, những kháng thể này sẽ được thông báo qua xương ức như một hệ thống điều khiển thông tin từ xa. Hệ thống này điều khiển hơi thở bằng cách điều chỉnh chức năng của tim và phổi.
Khi Kundalini xuyên qua trung tâm này, con người trở thành một nhân cách hoàn toàn tự tin, vững chắc, có trách nhiệm đạo lý, và cân bằng xúc cảm. Một con người như vậy rất nhân từ, yêu nhân loại mà không liên quan đến lợi ích bản thân, và yêu quý tất cả.
Sự liên quan:
  • Màu: Đỏ hồng ngọc
  • Nguyên tố: Phong
  • Hành tinh: Sao Vệ Nữ
  • Ngày: Thứ Sáu
  • Đá: Hồng ngọc
  • Đặc tính: Yêu thương, Che chở, Trắc ẩn, Nhân từ
  • Điều khiển các cơ quan: Tim, Phổi, Huyết áp, Xúc giác
Thực hành luân xa 4: để phần đỉnh của ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau. Đặt bàn tay trái trên đầu gối trái và tay phải ở phía trước của phần dưới của xương ức (trên đám rối dương). Tập trung ý vào luân xa 4 ở xương sống ngang với tim.
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm AH (À) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Luân xa 5 (Throat Chakra) 

có tên là VISHUDDHI. (Vishuddha). Trung tâm này có hình 16 cánh hoa và nằm ở khu vực cổ trên cột sống, điều khiển chức năng của tai, mũi, họng, cổ, lưỡi, bàn tay, cử chỉ... Trung tâm này phụ trách việc giao tiếp với người khác bởi vì ta giao tiếp với mọi người thông qua các cơ quan này. Về mức độ vật lý , nó điều khiển chức năng tuyến Giáp. Nói năng thô lỗ, hút thuốc, cư xử giả tạo và cảm giác tội lỗi sẽ cản trở trung tâm này. Khi Kundalini xuyên qua trung tâm này, con người sẽ trở nên thật thà, khéo léo và ngọt ngào trong giao tiếp, và không thích tranh luận phù phiếm. Người ấy sẽ trở nên cực kỳ khéo léo khi giải quyết các tình huống mà không đụng chạm đến cái tôi.
Sự liên quan:
  • Màu: Xanh da trời
  • Nguyên tố: Ether (Không)
  • Hành tinh: Sao Thần Nông
  • Ngày: Thứ Bảy
  • Đá: Sa phia
  • Đặc tính: Giao tiếp, Thật thà, Lịch thiệp, Lịch sự, Khéo léo
  • Điều khiển các cơ quan: Miệng, Tai, Mũi, Răng, Lưỡi, Mặt, Họng, Lời nói
Thực hành luân xa 5: Ngữa 2 lòng bàn tay,đan chéo các ngón tay trừ 2 ngón cái bấm vào ở phía trên, nâng 2 bàn tay lên ngay rốn Tập trung ý vào luân xa 5 tại vị trí cổ họng.
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm EYE (AI) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Luân xa 6 (Third Eye Chakra)

có tên là AGNYA. (Ajna). Trung tâm này có hình 2 cánh hoa và có vị trí tại điểm 2 dây thị giác giao nhau nằm trong bộ não (Giao thoa thị giác). Trung tâm này phục vụ cho tuyến Yên và tuyến Tùng trong cơ thể, biểu hiện 2 phần Bản ngã (ego) và Siêu ngã (superego) trong chúng ta. Trung tâm này quản lý mắt của chúng ta, hoạt động thị giác như xem xi-nê, máy tính, ti vi, đọc sách quá nhiếu sẽ làm suy yếu trung tâm. Việc say mê môn thể dục mềm dẻo, vận dụng trí óc nhiều sẽ cản trở trung tâm này và con người sẽ phát triển ý niệm cái tôi và bản ngã. Khi Kundalini xuyên qua trung tâm này, con người sẽ tự động trở nên vô tư, khoan dung, đây chính là cái cốt lõi của trung tâm này khiến chúng ta có thể tha thứ người khác.
Sự liên quan:
  • Màu: Trắng
  • Nguyên tố: Ánh sáng
  • Hành tinh: Mặt trời, Hải vương
  • Ngày: Chủ nhật
  • Đá: Kim cương
  • Biểu tượng: hình chữ thập
  • Đặc tính: Sự tha thứ
  • Điều khiển các cơ quan: Thalamus, Hypothalamus về thị giác, và Thị lực

Các bạn có thể tìm hiểu thêm về cơ quan Thalamus (Hạch Tùng = Tuyến Tùng ? ở đây: http://en.wikipedia.org/wiki/Thalamus

Chú thích: trước đây chúng ta hay dịch từ Superego là Đại ngã. Nhưng cách dịch này không ổn lắm, dễ gây nhầm lẫn với "Đại ngã" mà Yoga Ấn độ nói tới: năng lượng Kundalini là năng lực siêu tâm linh mang tính cá thể, là năng lực tiên thiên - có từ trước khi 1 cá nhân được sinh ra. Kundalini thức tỉnh & đi lên trên là để hòa nhập năng lực siêu tâm linh cá thể (góc độ vi mô) với năng lực siêu tâm linh toàn thể (góc độ vĩ mô). Nói cách khác, là tiểu ngã hòa nhập với đại ngã, một giọt nước hòa tan vào trong đại dương.

Vậy, từ nay trở đi, đề nghị dịch Superego là siêu ngã! Còn ego thì giữ nguyên ý dịch - là cái tôi, bản ngã, là cái nhận thức sai lầm của đa phần chúng ta, gây ra đau khổ. Vì thật ra, con người tồn tại (sống) là nhờ duyên hợp của tứ đại (đất, nước, gió và lửa), là sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức)... chứ thực sự thì ko có gì là "của ta, là ta, là bản ngã của ta"!!! Superego hay ego sinh ra từ nhận thức sai lầm, ảo tưởng của con người.

Thực hành luân xa 6: Đặt 2 tay chạm nhau nằm dưới ngực. Ngón tay giữa thẳng và chạm vào ngọn, chỉ về phía trước. Các ngón tay khác được uốn cong và dính nhau bằng hai đốt trên. 2 ngón cái chỉ về phía mình và chạm vào tại các đỉnh. Tập trung ý vào luân xa 6 con mắt thứ 3 nằm trên phía điểm giao giữa 2 lông mày.
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm AYE (Ê) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Luân xa 7 (Crown Chakra) 

có tên là SAHASRARA. Trung tâm này có hình 1.000 cánh hoa và là trung tâm quan trọng nhất trong bộ não hay khu vực limbic (?). Thực ra có 1 ngàn dây thần kinh, và nếu cắt ngang bộ não, bạn sẽ thấy tất cả các dây thần kinh được sắp xếp đẹp đẽ trong một cấu trúc giống như bông hoa sen một ngàn cánh. Trung tâm này bao phủ khu vực limbic của bộ não.
Trước khi có sự Tự ngộ (Self Realization), nó giống như một búp hoa sen khép kín. Ở phía trên được bao quanh bởi 2 quả cầu giống như cấu trúc của Bản ngã (Ego) và Đại ngã (SuperEgo).
Khi Kundalini đi lên và xuyên qua trung tâm này, tất cả các dây thần kinh sẽ được đánh thức và giải phóng tất cả các trung tâm thần kinh. Và chúng ta có thể nói con người ấy là 1 linh hồn được giải phóng. Kundalini vượt lên trên khu vực thóp (đỉnh đầu) và mở cửa tiến vào vũ trụ (chúng ta biết điều này qua một làn gió mát ở trên đầu). Đây là việc Hiện thực hoá sự Hợp nhất (sự Tự giác, tự ngộ) với tất cả năng lượng Thiêng liêng lan toả mọi nơi.
Sự liên quan:
  • Màu: Tất cả các màu (Đỏ, Da cam, Vàng, Lục (xanh lá cây), Lam, Chàm, Tím)
  • Nguyên tố: Tất cả các nguyên tố
  • Hành tinh: Sao Diêm Vương (hành tinh thứ 9 theo thứ tự và xa mặt trời nhất)
  • Ngày: Thứ Hai
  • Đá: Ngọc trai
  • Biểu tượng: Bandhan
  • Đặc tính: Hợp nhất, Tự giác
  • Điều khiển các cơ quan: Khu vực Limbic
Thực hành luân xa 7: Đặt 2 bàn tay trước bụng. Để cho các ngón đeo nhẫn chỉ lên, chạm ở đỉnh. Các ngón còn lại đan chéo với nhau, ngón tay cái phải nằm phía dưới ngón cái trái. Tập trung vào luân xa 7 Bách Hội ở phía trên đỉnh đầu của bạn.
Cảnh báo: không luyện tập luân xa này nếu luân xa 1 chưa đủ mạnh, gốc ko mạnh thì khoan luyện đỉnh
Hít vào nhẹ căng sâu và phát ra âm EEE (I) (rung liên tục, hết hơi thì thả nhẹ và lặp lại)

Tham khảo:


http://www.eclecticenergies.com/chakras/open.php
http://sygz2012.blogspot.com/20130301_archive.html
http://jojojotran.blogspot.com/2013/08/he-thong-bay-luan-xa-trong-co-the.html